CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG

Rate this post

Dưới đây Thuctaptotnghiep chia sẻ cho các bạn về Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng chọn lọc từ các bài điểm cao, được đánh giá tốt trong quá trình làm bài báo cáo thực tập kế toán. Các bạn tham khảo các mẫu dưới đây để hoàn thành thật tốt bài làm của mình nha.

Lưu ý: Trong quá trình làm bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, nếu các bạn gặp khó khăn về đề tài hay chưa có công ty thực tập các bạn có thể liên hệ với dịch vụ làm báo cáo thực tập trọn gói qua:

SĐT  / Zalo: https://zalo.me/0934536149

MỤC LỤC

CƠ SỞ LÝ LUẬN  NÂNG CAO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG

1.1. Khái quát về ngân hàng thương mại

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của ngân hàng thương mại

1.1.1.1. Khái niệm của Ngân hàng thương mại

Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các loại hình Ngân hàng.

Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế – xã hội đều gửi tiền tại Ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước (thành phố, tỉnh…). Đối với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết bị kỹ thuật. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho các khoản mua hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, ủy nhiệm chi, thẻ tín dụng hay tài khoản điện tử…Và khi họ cần thông tin tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến ngân hàng để nhận lời tư vấn. Các khoản tín dụng của ngân hàng cho Chính phủ (thông qua mua chứng khoán Chính phủ) là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.

Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ ổn định kinh tế.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Tóm lại, Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Nhưng cách tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.

Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động của ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.

1.1.1.2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại

Thứ nhất, ngân hàng thương mại trung gian tài chính thực hiện kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tàm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập và vì thế họ là những người bổ sung vốn; (2) các cá nhân và tổ chức thặng dư trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền để tiết kiệm.

Do tồn tại hai loại cá nhân và tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm thứ (2) sang nhóm thứ (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy, thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện phải quay trở lại với một lượng vốn lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát hoặc hùn vốn. Đây là quan hệ tài chính trực tiếp.

Tuy nhiên, quan hệ tài chính trực tiếp bị nhiều giới hạn do sự không phù hợp về qui mô, thời gian, không gian… Điều này cản trở quan hệ trực tiếp phát triển và là điều kiện nảy nở trung gian tài chính. Trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư (tăng thu nhập cho người đầu tư). Trung gian tài chính đã tập hợp các người tiết kiệm và đầu tư. Cơ chế hoạt động trung gian sẽ có hiệu quả khi nó gánh chịu rủi ro và sử dụng kỹ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.

Ngân hàng sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro trong khi lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người gửi tiền. Thực tế, các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro. Ngân hàng cũng thỏa mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng.

Ngân hàng là một trung gian thanh toán. Ngân hàng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ với nhiều hình thức thanh toán như bằng séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ…cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng cũng thực hiện bù trừ lẫn nhau thông qua Ngân hàng Trung ương hoặc thông qua trung tâm thanh toán. Hiện nay, ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất ở hầu hết các quốc gia.

Một lý do để ngân hàng phát triển thịnh vượng là khả năng thẩm định thông tin. Sự phân bổ không đều thông tin và năng lực phân tích thông tin được gọi là tình trạng “thông tin không cân xứng” làm giảm tính hiệu quả của thị trường nhưng tạo ra một khả năng sinh lợi cho ngân hàng, nơi có chuyên môn và kinh nghiệm đánh giá các công cụ tài chính và có khả năng lựa chọn những công cụ với các yếu tố rủi ro – lợi nhuận hấp dẫn nhất.

Thứ hai, ngân hàng là tổ chức kinh doanh phải có điều kiện. Ngân hàng chịu sự điều hành chặt chẽ của Chính phủ hơn bất kỳ tổ chức nào trong nền kinh kế, bởi ngân hàng là thủ quỹ của cả nền kinh tế. Ngân hàng muốn được cấp giấy phép hoạt động phải có một lượng vốn nhất định, cam kết thực hiện một số chính sách nhất định như cho vay, tài trợ cho một dự án hay một khoản chi tiêu nào đó, đồng thời trong quá trình hoạt động, ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước. Muốn hoạt động tốt, ngân hàng không ngừng gia tăng nguồn vốn của mình, tuyển nhân sự có đủ số lượng và chất lượng, có mạng lưới chi nhánh rộng khắp để đáp ứng nhanh các nhu cầu của khách hàng và thực hiện nhiều hoạt động khác, nhằm thu được lợi nhuận lớn, hạn chế rủi ro cho cả người gửi tiền và ngân hàng.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Xem thêm: Lời mở đầu nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng

1.1.2. Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại

1.1.2.1. Huy động vốn

♦ Huy động vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thường bao gồm: vốn tự có (vốn góp), thặng dư vốn và lợi nhuận tích lũy. Để bắt đầu hoạt động ngân hàng (được pháp luật cho phép), chủ ngân hàng phải có một lượng vốn nhất định. Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng mà nguồn hình thành vốn ban đầu khác nhau: ngân hàng nhà nước do ngân sách nhà nước cấp; Ngân hàng cổ phần do cổ đông đóng góp; Ngân hàng liên doanh do các bên liên doanh đóng góp; ngân hàng tư nhân là vốn thuộc sở hữu của tư nhân. Trong quá trình hoạt động, ngân hàng phải không ngừng gia tăng vốn chủ sở hữu của mình bằng: nguồn tích lũy từ lợi nhuận (chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn đầu tư); nguồn thặng dư vốn cổ phần, nguồn bổ sung từ góp thêm, cấp thêm…hoặc từ các quỹ và nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần (các khoản cho vay trung và dài hạn).

♦ Nhận tiền gửi: Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn tiền của ngân hàng thương mại. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau như:

  • Tiền gửi thanh toán: là tiền gửi của cá nhân hoặc doanh nghiệp gửi và nhờ ngân hàng giữ và thanh toán hộ trong phạm vi số dư cho phép với lãi suất rất thấp hoặc có thể bằng không;
  • Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức xã hội: là khoản tiền của doanh nghiệp hoặc các tổ chức xã hội gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định (có thể là 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 1 năm, 2 năm…) với lãi suất kì hạn tương ứng. Kì hạn càng cao thì lãi suất tiền gửi càng lớn. Người gửi có thể đến ngân hàng rút tiền nếu có cần một khoản tiền chi tiêu, tuy nhiên chỉ được hưởng lãi suất thấp hơn do không rút đúng hạn.
  • Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: là khoản tiền tiết kiệm của dân cư gửi vào ngân hàng với kì hạn nhất định. Ngân hàng đưa ra nhiều hình thức huy động và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ hoặc bằng vàng…).
  • Tiền gửi của các ngân hàng khác: nhằm mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác ngân hàng thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên, nguồn này thường không lớn.

♦ Đi vay từ các tổ chức khác: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm với các phương thức đi vay đa dạng:

  • Vay ngân hàng Nhà Nước: đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của ngân hàng thương mại. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (thiếu dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh toán), ngân hàng thương mại thường vay ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn.
  • Vay các tổ chức tín dụng khác: Đây là nguồn vay mượn lẫn nhau giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng. Nguồn này dùng để đáp ứng nhu cầu dự trữ và chi trả cấp bách và trong nhiều trường hợp nó bổ sụng và thay thế cho nguồn vay mượn từ ngân hàng Nhà nước.
  • Vay trên thị trường vốn: đây là nguồn vay nợ nhằm bù đắp thiếu hụt tiền cho vay trung và dài hạn. Các ngân hàng vay bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu).

♦ Huy động bằng các nguồn khác: như nguồn ủy thác, nguồn trong thanh toán và nguồn khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả…( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.1.2.2. Sử dụng vốn

            Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận.

♦ Hoạt động ngân quỹ: Ngân hàng phải để một lượng tiền mặt trong két nhất định nhằm để chỉ trả nhanh chóng khi có với các nhu cầu của khách hàng. Tiền mặt không phát sinh, do vậy, để vừa đáp ứng thực hiện mục tiêu thanh khoản vừa tạo ra một khoản thu nhập cho ngân hàng, ngân hàng thường có một khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước, tại các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác.

♦ Hoạt động đầu tư chứng khoán: ngân hàng thương mại nắm giữ chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hóa tài sản. Các chứng khoán ngân hàng nắm giữ thường là: chứng khoán chính phủ; chứng khoán của các ngân hàng khác, các  công ty tài chính và chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng nắm giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng (lớn hơn so với tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng) và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Nhưng phải hiểu rằng đầu tư chứng khoán ở đây là đầu tư vào trái phiếu, tín phiếu… chứ không phải là đầu tư vào cổ phiếu. Đầu tư vào cổ phiếu thuộc hoạt động hùn vốn của ngân hàng.

♦ Hoạt động tín dụng: là hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại, chiếm tỷ trọng lớn nhất và mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Thường được phân chia thành theo thời gian (tín dụng ngắn, trung và dài hạn), theo hình thức tài trợ chia thành cho vay, bảo lãnh, cho thuê, chiết khấu…, chia theo tài sản đảm bảo, theo rủi ro (các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp) hay theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp…) hay theo đối tượng tài trợ (hàng hóa, hoặc bất động sản…) hoặc theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…).

♦ Các hoạt động khác: Các hoạt động khác là các hoạt động như hoạt động thanh toán, hoạt động ủy thác, hoạt động hùn vốn (ngân hàng tham gia góp vốn với các tổ chức khác dưới hình thức nắm giữ cổ phiếu, góp vốn liên doanh, liên kết…), các hoạt động sử dụng vốn khác như mua sắm, nhà cửa trang thiết bị phục vụ cho quá trình kinh doanh của khác hàng và cho thuê.

1.1.2.3. Hoạt động khác

            Bên cạnh các hoạt động mang tính truyền thống và đặc trưng, ngân hàng thương mại cũng tiến hành các hoạt động khác nhằm tìm kiếm lợi nhuận như: cung cấp dịch vụ ủy thác, dịch vụ tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý…

Xem thêm: Đề cương nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng

1.2. Hoạt động tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm của tín dụng

            Tín dụng xuất phát từ chữ Latinh Creditium có nghĩa là sự tin tưởng, tín nhiệm. Tiếng anh là Credit. Theo Kmarx, tín dụng là quá trình chuyển nhượng tạm thời một một lượng giá trị từ người sở hữu đến người sử dụng sau một khoảng thời gian nhất định thu hồi một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay mượn dựa trên sự tin tưởng.

            Theo quan hệ tài chính, tín dụng được hiểu theo nghĩa sau đây:( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

  • Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay: Tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ người cho vay sang người cho vay; hay tín dụng là sự chuyển dịch từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ thể thâm hụt tiết kiệm.
  • Trong mối quan hệ tài chính cụ thể: Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả giữa hai chủ thể.
  • Tín dụng còn có nghĩa là một số tiền vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng.

Như vậy có thể hiểu: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền vay hàng hóa) giữa bên cho vay và bên đi vay, trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho vay khi đến hạn thanh toán.

Như vậy, khái niệm tín dụng gồm ba mặt cơ bản và một quan hệ được gọi là tín dụng khi có đầy đủ cả ba mặt dưới đây:

  • Có sự chuyển giao quyền sử dụng một tài sản từ người này sang người khác.
  • Sự chuyển giao này mang tính chất tạm thời.
  • Khi hoàn lại tài sản đã chuyển giao cho người sở hữu phải kèm thêm một lượng giá trị dôi thêm – gọi là lãi hay lợi tức.

Tín dụng có các hình thức chủ yếu là tín dụng Nhà nước, tín dụng thương mại, và tín dụng Ngân hàng. Tín dụng thương mại là việc mua bán chịu (hay mua bán trả chậm) hàng hóa, dịch  vụ giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền tệ giữa một bên là ngân hàng với một bên là tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

Trong nền  kinh tế hiện đại, tín dụng ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng nhất không chỉ với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối với toàn bộ  nền kinh tế quốc dân. Không một doanh  nghiệp nào có thể tồn tại vững chắc trên thương trường mà không vay vốn của ngân hàng. Việc vay vốn từ ngân hàng đảm bảo nguồn tài chính cho hoạt động sản xuất – kinh doanh, đặc biệt là các dự án mở rộng sản xuất hay đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp.

1.2.2. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của tín dụng trung và dài hạn

            Khái niệm của tín dụng trung và dài hạn

Ở Việt Nam theo điều 8, số 1627/2001/QĐ-NHNN quy chế cho vay của tổ chức tín dụng: “Tín dụng trung hạn là các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 60 tháng, các khoản tín dụng có thời hạn từ 60 tháng trở lên là tín dụng dài hạn”.

            Tín dụng trung hạn chủ yếu được người đi vay sử dụng để mua tài sản cố định, cải tiến đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh và xây dựng các dự án mới có quy mô vừa và nhỏ.

            Tín dụng dài hạn chủ yếu để tài trợ vào việc đổi mới dây chuyền sản xuất hiện đại, xây dựng công trình có quy mô, thời gian hoạt động dài như xây dựng nhà ở, các xí nghiệp nhà mày mới, các thiết bị phương tiện vận  tải có giá trị lớn.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

            Nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn nhưng từ những năm 70 trở lại đây các ngân hàng thương mại đã chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi  mới đó là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng dư nợ ngân hàng.

Đặc điểm của tín dụng trung và dài hạn:

  • Vốn đầu tư lớn, thời hạn dài, thu hồi vốn chậm: Đối tượng tài trợ của tín dụng trung và dài hạn là tài sản cố định và các công trình xây dựng. Đặc điểm của đối tượng này là có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Do đó, khoản  cho vay để tài trợ cho các đối tượng này đòi hỏi một số vốn đầu tư lớn. Mặt khác, nguồn để trả nợ là các quỹ  khấu hao cơ bản và lợi nhuận thu được từ dự án. Vì vậy, thời hạn trả nợ thường kéo dài đến khi dự án kết thúc.
  • Rủi ro cao: Do lượng vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên độ rủi ro của các khoản tín dụng trung và dài hạn là cao.
  • Lợi nhuận từ các khoản tín dụng trung và dài hạn lớn: do lợi nhuận càng cao thì rủi ro càng lớn, nên các khoản cho vay trung và dài hạn thường có  mức lãi suất cao. Thêm vào đó, do khoản cho vay thường có số vốn lớn nên thu nhập mà khoản tín dụng này đem lại cho ngân hàng  là lớn.

Vai trò của tín dụng trung và dài hạn

♦ Đối với doanh nghiệp: là một chủ thể trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh từ phía các đối thủ. Để tồn tại, phải triển và thắng thế trong cạnh tranh, điều cần thiết là các doanh nghiệp phải chú trọng đến việc mở rộng sản xuất, mua sắm trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản phẩm và giảm chi phí đến mức thấp nhất có thể. Muốn thực hiện được điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn đầu tư rất lớn. Nguồn tài trợ mà doanh nghiệp có thể lấy từ các nguồn: tự tích lũy lợi nhuận không chia (đây là nguồn quan trọng, tuy nhiên phương thức tài trợ này đòi hỏi một thời gian dài, có thể khiến các doanh nghiệp bỏ lỡ cơ hội kinh doanh); phát hành cổ phiếu, trái phiếu (nguồn này có ưu điểm là tập trung được lượng vốn lớn trong thời gian ngắn song doanh nghiệp phải đối mặt với sự phân quyền kiểm soát trong công ty, và không phải doanh nghiệp nào cũng được phép và sự tín nhiệm để phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra công chúng, trái phiếu cũng không tạo ra sự linh hoạt về kỳ hạn trả nợ) và sử dụng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng. Tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, có ưu thế hơn so với các nguồn trên, thể hiện ở chỗ: Thứ nhất, nó giúp doanh nghiệp chớp lấy thời cơ kinh doanh nhờ rút ngắn thời gian tìm kiếm vốn. Thủ tục vay ngân hàng tuy chặt chẽ nhưng nếu tuân thủ đúng thì thời gian doanh nghiệp nhận được khoản tín dụng này của ngân hàng là ngắn hơn nhiều so với tự tích lũy hay phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Thứ hai, không dẫn đến sự phân chia quyền kiểm soát công ty với bên ngoài so với việc phát hành cổ phiếu. Thứ ba, tín dụng trung và dài hạn ngân hàng tạo ra sự linh hoạt về kì hạn: doanh nghiệp có thể vay vốn ngân hàng theo kỳ hạn phù hợp với yêu cầu kinh doanh và chu kỳ thu nhập. Việc điều chỉnh kỳ hạn nợ của các khoản tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là dễ dàng: khi doanh nghiệp làm ăn thuận lợi, nhanh chóng thu hồi vốn đầu tư và làm ăn có lãi, có thể trả nợ ngân hàng trước hạn. Ngược lại, khi doanh nghiệp gặp khó khăn trong sản xuất – kinh doanh, có thể xin ngân hàng gia hạn nợ. Mặt khác, việc trả nợ trung và dài hạn được chia thành các kỳ hạn hợp lý và ổn định, giúp cho doanh nghiệp chủ động trong việc tìm kiếm nguồn trả nợ.

Đối với ngân hàng: Tín dụng trung và dài hạn với đặc điểm là vốn đầu tư lớn, thời gian cho vay dài, rủi ro cao nên có lãi suất cao, là nguồn mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng.

            Thông qua hoạt động tín dụng trung và dài hạn, ngân hàng không ngừng mở rộng quy mô khách hàng, bằng việc: thu hút thêm các khách hàng mới, tạo ra mối liên hệ chặt chẽ và lâu bền với các khách hàng truyền thống. Nhờ đó, ngân hàng không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, ngày càng khảng định vị thế và vai trò của mình trong nền kinh tế.

Tín dụng trung và dài hạn góp phần vào việc làm cho vốn huy động không bị nhàn rỗi, mà được sử dụng hiệu quả để đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do ngân hàng không thể ngừng nhận tiền gửi từ dân cư, và vẫn phải trả lãi cho tiền gửi nên nếu để khoản tiền nhàn rỗi trong “ket”, làm tăng chi phí ngân hàng và giảm lợi nhuận. Tín dụng trung và dài hạn là một trong các cơ sở để ngân hàng mở rộng huy động vốn, sử dụng vốn một cách khả thi, tăng sức cạnh tranh của bản thân ngân hàng.

            ♦ Đối với nền kinh tế: Ở mọi quốc gia, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất lớn để đầu tư phát triển cơ sở hạn tầng. Nhu cầu này có thể được đáp ứng bằng nhiều nguồn như: Ngân sách Nhà nước, viện trợ phát triển, vay nợ nước ngoài nhưng nguồn quan trọng nhất vẫn là tín dụng trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại. Do đó, tín dụng trung và dài hạn rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế – xã hội.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.3. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại

1.3.1. Khái niệm của chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại

            Bất kì một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường đều phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đưa ra mức giá phù hợp,…Ngân hàng thương mại – một doanh nhiệp đặc biệt – cũng không nằm ngoài quy luật đó. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Nâng cao chất lượng tín dụng là điều kiện hàng đầu để ngân hàng không ngừng phát triển.

Xuất phát từ mối quan hệ tín dụng, xem xét chất lượng tín dụng trên ba giác độ: ngân hàng thương mại, khách hàng và nền kinh tế.

♦ Trên giác độ ngân hàng thương mại

Chất lượng tín dụng thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn tín dụng phải phù hợp với khả năng, thực lực theo hướng tích cực của bản thân ngân hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn và có lãi. Chất lượng tín dụng phải đảm đảm chỉ tiêu lợi nhuận hợp lý và gia tăng, dư nợ ngày càng trưởng, tỷ lệ nợ quá hạn đảm bảo và giảm thiểu, đảm bảo cân đối giữa nguồn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong nền kinh tế.

♦ Trên giác độ khách hàng

Thông qua quan hệ lâu dài với khách hàng, sự am hiểu về khách hàng sẽ làm cho ngân hàng hiểu rõ nhu cầu tín dụng của Ngân hàng, đảm bảo thỏa mãn nhu cầu về vốn cho họ. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng là yêu cầu hàng đầu, vì vậy, chất lượng tín dụng là sự đáp ứng yêu cầu hợp lý của khách hàng: lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không phiền hà, thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đúng nguyên tắc và quy định của tín dụng.

♦ Trên giác độ nền kinh tế

Tín dụng phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo việc làm cho người lao động, tăng thêm sản phẩm cho xã hội, thu hút tối đã nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, góp phần tăng trưởng kinh tế, đảm bảo các mục tiêu kinh tế của Nhà nước và chính phủ đặt ra.

Như vậy, chất lượng tín dụng là một chỉ tiêu tổng hợp được đánh giá trên quan điểm của: ngân hàng, khách hàng và của nền kinh tế. Chất lượng tín dụng trung và dài hạn là một bộ phận của chất lượng tín dụng cũng không nằm ngoài sự đánh giá này. Tóm lại, tín dụng trung và dài hạn được đánh giá là có chất lượng khi: khoản tín dụng đó đạt được mục đích vay vốn đã đề ra; hoàn trả vốn vay đầy đủ, đúng hạn, mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội cho cả người vay và người đi vay.

1.3.2. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng trung và dài hạn của Ngân  hàng thương mại

            Chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng tín dụng trung và dài hạn nói riêng là một chỉ tiêu tổng hợp, vừa mang tính cụ thể, vừa mang tín trừu tượng. Do đó, để đánh giá chất lượng tín dụng trung và dài hạn cần thiết lập hai nhóm chỉ tiêu: chỉ tiêu định tính và chỉ tiêu định lượng:( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.3.2.1. Chỉ tiêu định tính

Chỉ tiêu này được thể hiện qua một số khía cạnh sau:

  • Khả năng đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng: thủ tục đơn giản, nhanh chóng, thuận tiện, kỳ hạn và phương thức thanh toán phù hợp với chu kỳ kinh doanh và chu kỳ thu nhập của khách hàng.
  • Ngân hàng có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực cấp tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng, cở sở vật chất được trang bị tốt và đầy đủ. Hình thức huy động vốn, hình thức cho vay và đầu tư đa dạng. Ngân hàng không ngừng cung cấp các dịch vụ mới.
  • Đối tượng khách hàng đa dạng, lượng khách hàng vay trung và dài hạn đông đảo, không ngừng được mở rộng.

Cách đánh giá chỉ tiêu định tính:

Để đánh giá chỉ tiêu định tính, các cách thường dùng là các cách dùng trong thống kê học như điều tra, phỏng vấn và phương pháp chuyên gia. Trong đó, điều tra là phương pháp hay sử dụng nhất. Thông qua điều tra, quan sát có thể biết được thủ tục cho vay đối với khách hàng như thế nào, rút ra nhận xét. Cũng có thể thấy được cơ sở vật chất của ngân hàng. Thông qua điều tra cũng cho thấy được đối tượng khách hàng là ai, số lượng là bao nhiêu, đang kinh doanh ngành nghề gì, cần vay sử dụng vào mục đích nào. Hình thức huy động vốn, đầu tư, cho vay của ngân hàng đa dạng hay không, sử dụng phương pháp này cũng cho kết quả tương đối chính xác. Ngoài ra, có thể dùng phương pháp phỏng vấn để thấy được khách hàng có hài lòng với ngân hàng hay không, các chuyên gia đánh giá về hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng ra sao. Để đánh giá chất lượng tín dụng của mình thông qua chỉ tiêu định tính, Ngân hàng thường thuê các công ty kiểm toán uy tín.

1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn

Việc xác định các nhân tố có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng là rất quan trọng trong việc đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động tín dụng này.

1.4.1. Nhân tố chủ quan

Quy mô và cơ cấu nguồn vốn của ngân hàng thương mại

 Các ngân hàng khi cho vay phải cần có lượng vốn lớn. Do yêu cầu đảm bảo khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng phải được tài trợ chủ yếu bằng nguồn vốn trung và dài hạn. Nếu một ngân hàng có nguồn vốn dồi dào nhưng chủ yếu là vốn ngắn hạn, không ổn định khì không nên mở rộng cho vay trung và dài hạn. Các nguồn vốn của một ngân hàng có thể sử dụng cho vay trung và dài hạn bao gồm: nguồn tự có của ngân hàng, vốn vay trung và dài hạn, vốn huy động trung và dài hạn và một bộ phận nhất định vốn ngắn hạn. Quy mô của các nguồn này là một trong những nhân tố quyết định quy mô cho vay trung và dài hạn và do đó ảnh hưởng đến chất lượng cho vay trung và dài hạn của ngân hàng. Ngoài ra, một ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào cũng dễ dàng hơn trong việc tạo lập uy tín đối với khách hàng, nhờ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

♦ Hiệu quả của công tác thẩm định của ngân hàng

Một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tín dụng là vốn và lãi phải được trả đúng hạn. Điều này khó có thể có được nếu dự án được thực hiện không hiệu quả như mong muốn, hoặc doanh nghiệp cố tình lừa đảo ngân hàng. Để hạn chế nguy cơ đó ngân hàng cần thực hiện tốt công tác thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Nếu thẩm định sai, đánh giá sai năng lực pháp lý, tài chính và hiệu quả của dự án sẽ dẫn đến gia tăng các khoản nợ xấu, nợ quá hạn. Chi phí trong hoạt động thu nợ, thanh lý tài sản của ngân hàng tăng, gây tổn thất cho ngân hàng, giảm lợi nhuận. Thậm chí, ngân hàng không thể thu được nợ, mất vốn ngân hàng. Cũng có thể những dự án có hiệu quả nhưng không được cấp tín dụng, ngân hàng sẽ mất đi một khoản lợi nhuận. Thực hiện tốt công tác thẩm đinh giúp ngân hàng loại bỏ những dự án không khả thi, giảm rủi ro cho ngân hàng đồng thời tiết kiệm chi phí cho nền kinh tế, nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.

♦ Chính sách tín dụng

Hoạt động tín dụng là hoạt động bao trùm của ngân hàng, trong đó hoạt động tín dụng trung và dài hạn đóng vai trò rất quan trọng. Hoạt động này phải được thực hiện theo một chính sách rõ ràng và cụ thể. Chính sách này phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng, tạo sự thống nhất chung cán bộ tín dụng và các chuyên viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa trong phân tích tín dụng, tạo sự thống nhất chung cho hoạt động tín dụng nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Chính sách tín dụng thường bao gồm các nội dung như: chính sách khách hàng, quy mô và giới hạn tín dụng, lãi suất và phí suất tín dụng, thời hạn và kỳ hạn nợ, chính sách về đảm bảo tiền vay, chính sách đối với các khoản vay có vấn đề. Một chính sách tín dụng đúng đắn và linh hoạt phù hợp với từng thời kỳ sẽ góp phần nâng cao chất lượng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng.

♦ Thông tin tín dụng

Thông tin tín dụng luôn là yếu tổ cơ bản và cần thiết. Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, để thẩm định dự án, thẩm định khách hàng trước tiên phải có thông tin về khách hàng đó, về dự án đó, để làm tốt công tác giám sát khi cho vay cũng cần có thông tin. Thông tin càng chính xác, kịp thời càng thuận lợi cho ngân hàng trong việc đưa ra quyết định cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn vay và tiến độ trả nợ. Thông tin chính sác, kịp thời, đầy đủ còn giúp cho ngân hàng xây dựng hoặc điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chinh sách tín dụng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần nâng cao chất lượng tín dụng cho ngân hàng

♦ Công tác tổ chức ngân hàng

Việc tổ chức các hoạt động của ngân hàng theo quy trình khoa học, hợp lý có sự phối hợp giữa các thành viên sẽ làm giảm chi phí của ngân hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Hoạt động ngân hàng sẽ thống nhất và đồng bộ. Đây là cơ sở nhằm nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.

♦ Công nghệ ngân hàng

Đây cũng là một nhân tố tác động đến chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học – kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng công nghệ hiện đại, được trang bị các phương tiện kỹ thuật cao sẽ đem lại điều kiện đơn giản hóa các thủ tục, rút ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là điều kiện tiền đề để ngân hàng thu hút them khách hàng, mở rộng tín dụng. Sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật hiện đại còn giúp cho việc thu thập thông tin nhanh chóng, chính xác, công tác lập kế hoạch, xây dựng chính sách tín dụng cũng có hiệu quả hơn.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

♦ Chất lượng nhân sự và quản lý nhân sự của ngân hàng

Cho dù khoa học kỹ thuật hiện đại đã mở ra cơ hội tự động hóa nhiều lĩnh vực song nhân tố con người luôn giữ vai trò quyết định. Đặc biệt trong hoạt động tín dụng ngân hàng là hoạt động rất phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội thì vai trò của con người càng quan trọng. Các phương tiện kỹ thuật hiện đại chỉ có thể trợ giúp chứ không thể thay thế được “sự nhạy cảm” hay “kinh nghiệm” của cán bộ tín dụng. Do vậy, vấn đề nhân sự là một vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Chất lượng nhân sự ở đây không chỉ đề cập đến trình độ chuyên môn mà còn cả lương tâm, đạo đức, tác phong, kỷ luật lao động của người cán bộ ngân hàng. Bên cạnh chất lượng nhân sự thì công tác quản lý nhân sự cũng là nhân tố quan trọng tác động đến chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. Mỗi cán bộ tín dụng đều có điểm mạnh va yếu riêng, điều quan trọng là phải biết bố trí sắp xếp công việc sao cho phát huy hết thế mạnh và hạn chế những điểm yếu của từng người, đồng thời có chế độ đãi ngộ hợp lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, tạo ra sự phối hợp thống nhất cũng hướng tới một mục tiêu chung là nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.

Xem thêm: Thực trạng nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng

1.4.2. Nhân tố khách quan

1.4.2.1. Nhân tố thuộc về khách hàng

            Khách hàng là người trực tiếp sử dụng vốn của ngân hàng và tiến hàng các hoạt động sản xuất kinh doanh. Việc ngân hàng có thu hồi được gốc và lãi hay không phụ thuộc vào quá trình sử dụng vốn ngân hàng của khách hàng. Khả năng của khách hàng trong việc đáp ứng các điều kiện tiêu chuẩn tín dụng trung và dài hạn là mối quan tâm lớn của ngân hàng. Khả năng này được thể hiện:

♦ Năng lực thị trường của khách hàng: năng lực này thể hiện ở khối lượng sản phẩm tiêu thụ của doanh nghiệp trong nền kinh tế, vị trí trên thị trường trong nước hay quốc tế, vị trí và tương lai phát triển của ngành kinh tế mà doanh nghiệp đang hoạt động…Năng lực thị trường cho biết khả năng thích ứng của doanh nghiệp với thị trường, thể hiện ở mức độ chấp nhận của thị trường đối với các sản phẩm của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có năng lực thị trường cao thì  rủi ro đối với ngân hàng càng thấp.

♦ Năng lực sản xuất của khách hàng: nghiên cứu năng lực sản xuất của doanh nghiệp cho biết quy mô sản xuất của doanh nghiệp, sự đáp ứng quy mô ấy với thị trường, cơ cấu và việc làm chủ giá thành sản phẩm. Biểu hiện cụ thể và rõ nhất của năng lực sản xuất là doanh nghiệp phải sản xuất ổn định và có lãi.

♦ Năng lực tài chính của khách  hàng: Năng lực tài chính của khách hàng (doanh nghiệp) thể hiện ở khối lượng và tỷ trọng vốn tự có trong tổng nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng. Điều kiện tín dụng thường quy định một tỷ lệ cụ thể, tối thiểu của vốn tự có trong tổng nguồn vốn hoạt động hay tỷ lệ vốn đầu tư tự có tương ứng với khối lượng vốn vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia dự án vay vốn. Năng lực tài chính của doanh nghiệp càng cao, khả năng đáp ứng điều kiện tín dụng của ngân hàng càng lớn.

♦ Năng lực quản lý của doanh nghiệp: Sự thành bại của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của doanh nghiệp. Năng lực quản lý của doanh nghiệp tốt làm cho đồng vốn đầu tư của ngân hàng ít rủi ro hơn.

♦ Quyền sở hữu tài sản và khả năng đáp ứng các biện pháp bảo đảm: Doanh nghiệp có tài sản đảm bảo càng giá trị, dễ phát mại thì ngân hàng càng mong muốn mở rộng tín dụng nói chung và tín dụng trung và dài hạn nói riêng.

♦ Tính khả thi của dự án: Nếu doanh nghiệp có thể thuyết trình và chứng minh được dự án xin được vay vốn là có tính khả thi thì ngân hàng sẽ có cơ sở mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.

1.4.2.2. Các nhân tố khách quan khác

            Để nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường ngoài những nhân tố chủ quan từ phía ngân hàng, nhân tố khách quan từ phía khách hàng thì các nhân tố khách quan khác cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng thương mại. Đó là:( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

♦ Môi trường kinh tế: Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Nếu nền kinh tế rơi vào suy thoái, sản xuất đình trệ, nhu cầu vốn trung và dài hạn là rất thấp bởi khả năng trả nợ của doanh nghiệp là thấp. Ngoài ra, những biến động về lãi suất, tỷ giá trên thị trường cũng ảnh hưởng trực tiếp tới lãi suất ngân hàng, dẫn đến ảnh hưởng tới mức lãi suất ròng của khoản tín dụng. Và rất nhiều những biến động kinh tế khác đều ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng của ngân hàng.

♦ Môi trường chính trị – xã hội: Sự ổn đinh của môi trường chính trị xã hội là một căn cứ quan trọng để ra quyết định đầu tư. Môi trường chính trị xã hội ổn định thì các nhà đầu tư sẽ yên tâm thực hiện việc mở rộng đầu tư và do đó nhu cầu vốn tín dụng trung và dài hạn sẽ tăng lên. Ngược lai, môi trường bất ổn thì họ tìm cách thu hẹp sản xuất để bảo toàn vốn, hạn chế rủi ro, khi đó nhu cầu vốn tín dụng ngân hàng cũng giảm sút theo.

♦ Môi trường pháp lý: Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp. Các văn bản pháp lý có vai trò hướng dẫn hoạt động tín dụng của ngân hàng tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng, giúp ngân hàng xử lý các tranh chấp trong hoạt động tín dụng. Mặt khác, môi trường pháp lý có ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất, hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, nên nó tác động gián tiếp tới nhu cầu vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh, hiệu quả đầu tư của doanh nghiệp. Vì vậy, một môi trường pháp lý đầy đủ, đổng bộ và ổn định là cơ sở nền tảng để nâng cao chất lượng tín dụng.

Như vậy, chất lượng tín dụng trung và dài hạn chịu tác động của nhiều nhân tố. Việc hiểu rõ và vận dụng sáng tạo các nhân tố này sẽ giúp cho ngân hàng phát triển hoạt động tín dụng, tăng khả năng cạnh tranh cũng như uy tín của mình.


CƠ SỞ LÝ LUẬN  NÂNG CAO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG 2

1.1. Khái niệm về dự án đầu tư.

1.1.1. Khái niệm chung.

Hiện nay còn nhiều định nghĩa khác nhau về DAĐT  nhưng khái niệm chung nhất là:

DAĐT  là một hệ thống các thuyết minh, được trình bày một cách chi tiết, có luận cứ về các giải pháp sử dụng nguồn lực, để đạt được mục tiêu cao nhất trong chủ trương đầu tư.

DAĐT  bao gồm 4 phần chính:( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

  • -Mục tiêu của dự án;
  • -Các kết quả;
  • -Các hoạt động;
  • -Các nguồn lực.

Trong 4 thành phần trên thì kết quả chính là thành phần đánh dấu tiến độ của dự án. Kết quả có thể được biểu hiện dưới dạng kết quả tài chính, kết quả kinh tế và kết quả xã hội. Kết quả tài chính là các lợi ích về tài chính thu được từ dự án biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá thị trường. Kết quả kinh tế là các lợi ích về kinh tế biểu hiện bằng giá trị, tính theo giá kinh tế. Giá kinh tế là giá trị chi phí các nguồn lực hoặc các khoản thu nhập từ dự án xét trên góc độ chung của quốc gia. Kết quả xã hội là kết quả được biểu hiện dưới dạng các lợi ích xã hội (trình độ dân trí, khả năng phòng chống bệnh tật, bảo đảm môi trường…) kết quả này biểu hiện rất phong phú và thường không thể đo lường một cách chính xác.   

1.1.2.Vai trò của dự án đầu tư.

DAĐT  có vai trò hết sức quan trọng không chỉ đối với chủ đầu tư mà còn đối với Nhà nước và các bên liên quan. Cụ thể là:

  • * Dự án là căn cứ quan trọng để quyết định việc bỏ vốn đầu tư.
  • * Dự án là cơ sở để xây dựng kế hoạch đầu tư, theo dõi, đôn đốc và kiểm tra quá trình thực hiện đầu tư.
  • * Dự án là cơ sở quan trọng để thuyết phục các tổ chức tài chính, tín dụng cho vay vốn để tiến hành đầu tư.
  • * Dự án là căn cứ quan trọng để đánh giá và có những điều chỉnh kịp thời những tồn tại và những vướng mắc trong quá trình thực hiện và khai thác công trình.
  • * Dự án là một trong những cơ sở pháp lý để xem xét, xử lý khi có tranh chấp giữa các bên tham gia liên doanh đầu tư.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Riêng đối với chủ đầu tư, dự án còn là cơ sở để: xin phép được đầu tư, xin phép nhập khẩu vật tư máy móc, xin hưởng các ưu đãi về đầu tư, xin gia nhập khu chế xuất – khu công nghiệp… 

1.2. Dự án đầu tư trung và dài hạn

1.2.1 Khái niệm chung

DAĐT  trung và dài hạn là DAĐT  cần lượng vốn lớn, thời gian tiến hành đầu tư cũng như vận hành kết quả đầu tư kéo dài và mang tính rủi ro cao. Mặt khác, nó vừa phải mang lại lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư vừa phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Do đó, để tiến hành một công cuộc đầu tư phải có sự chuẩn bị hết sức nghiêm túc. Sự chuẩn bị đó biểu hiện bằng việc nghiên cứu, soạn thảo các giải pháp kinh tế, kỹ thuật nhằm tiến hành hoạt động đầu tư.

1.2.2 Đặc điểm dự án đầu tư trung và dài hạn

Xét về mặt hình thức thì DAĐT  là tập hồ sơ, tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống một chương trình hoạt động và các chi phí tương ứng để đạt mục tiêu nhất định trong tương lai. Dự án đầu tư trung và dài hạn khác có các đặc điểm khác với dự án đầu tư (nói chung) như sau: 

  • – Dự án đầu tư trung và dài hạn có thời gian thực hiện trên 12 tháng.
  • – Dự án đầu tư trung và dài hạn phục vụ nhu cầu mở rộng phát triển sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu.
  • – Dự án đầu tư trung và dài hạn phục vụ nhu cầu phát triển và tăng trưởng kinh tế.
  • – Dự án đầu tư trung và dài hạn là một hoạch định trong tương lai, được thực hiện trong thời gian dài trên 12 tháng nên nó bất ổn định và tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro hệ thống.

1.3 Cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn

1.3.1. Quy định về cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn

* Một là, vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án, phương án.

Cho vay trung và dài hạn với thời gian dài, độ rủi ro cao hơn so với cho vay ngắn hạn, để giảm bớt rủi ro ngoài việc qui định vay phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng cho vay còn qui định khách hàng phải có vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh và đời sống. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu tham gia vào dự án cao hay thấp tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro và hiệu quả của dự án.

* Hai là, thời hạn trả nợ và nguồn trả nợ của DAĐT  trung và dài hạn.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

         Thời hạn trả nợ vốn phụ thuộc vào tính chất, địa điểm của dự án đầu tư. Nhưng thời hạn trả nợ cũng có thể rút ngắn trong trường hợp hiệu quả của dự án mang lại cao. Việc trả nợ trước hạn sẽ giúp ngân hàng thu được nợ chắc chắn nhưng đôi khi ảnh hưởng đến kế hoạch sử dụng vốn của ngân hàng. 

          Nguồn trả nợ đối với khoản cho vay trung và dài hạn nhìn chung khác với cho vay ngắn hạn. Các khoản cho vay trung và dài hạn được dùng chủ yếu cho nhu cầu mua sắm tài sản cố định và tài sản lưu động, cho nên nguồn trả nợ chính của khoản vay này là từ nguồn khấu hao và một phần lợi nhuận do DAĐT  trung và dài hạn mang lại.

* Ba là, giải ngân trong cho vay trung và dài hạn.

          Đối với khoản vay trung và dài hạn có thể giải ngân một lần, hoăc nhiều lần nhằm đảm bảo cho khách hàng sử dụng tiền vay đúng mục đích. Ngân hàng không cho rút vốn khi các nhu cầu chi tiêu liên quan đến dự án chưa phát sinh.

Ngân hàng và khách hàng thoả thuận rút hết toàn bộ tiền vay một lần trong trường hợp vay để mua sắm máy móc, thiết bị. Đối với các tài sản hình thành trong một thời gian dài thì việc giải ngân được thực hiện theo tiến độ công việc hoàn thành.

* Bốn là, lãi suất cho vay trung và dài hạn.

Lãi suất cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, nó có thể là lãi suất cố định trong suốt thời kỳ vay vốn, cũng có thể là lãi suất biến đổi tuỳ thuộc vào sự biến động của thị trường. Sự biến đổi của lãi suất có thể dựa trên lãi suất cơ bản của ngân hàng, hay lãi suất liên ngân hàng của một số thị trường như: LIBOR, SIBOR … Việc thu tiền lãi có thể theo kỳ hạn tháng, quí, năm dựa vào số dư ở mỗi kỳ hạn trả nợ và lãi suất cho vay. Khách hàng có thể trả tiền lãi cùng nợ gốc tại mỗi kỳ hạn trả nợ hay trả tiền lãi vào một ngày nào đó trong kỳ theo thoả thuận

1.3.2. Quy trình cho vay dự án đầu tư

Giống như cho vay ngắn hạn, quy trình cho vay DAĐT  đối với các khách hàng được bắt đầu bằng việc xem xét và quyết định cho vay, sau đó là giải ngân vốn, theo dõi nợ vay và kết thúc bằng việc thu nợ gốc và lãi. Dựa trên đề xuất vay DAĐT  của khách hàng vay, ngân hàng thương mại phải xem xét trong một thời gian nhất định và đưa ra quyết định từ chối hay chấp nhận cho vay.

Đề xuất vay vốn DAĐT  của khách hàng được hợp thức hoá bằng các tài liệu như: đơn xin vay; hồ sơ pháp lý chứng minh tư cách pháp nhân và vốn điều lệ ban đầu; hồ sơ tình hình tài chính 2 năm trước khi đề xuất vay và của 2 quý trong năm đề xuất vay; các tài liệu liên quan đến DAĐT  xin vay (luận chứng kinh tế – kỹ thuật; bản phê duyệt luận chứng kinh tế kỹ thuật của cấp có thẩm quyền; các văn bản có liên quan đến cung ứng vật tư thiết bị, nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm; các giấy tờ liên quan đến tài sản thế chấp hoặc cầm cố…).

Việc chấp nhận hay từ chối cho vay một DAĐT  của khách hàng phải dựa vào thẩm tra các mặt như tư cách pháp nhân; mức vốn tham gia của đơn vị vay vốn; tình hình sản xuất kinh doanh; tình hình công nợ, đồng thời phải xem xét mục đích kinh tế xã hội, khả năng thực thi, nguồn cung cấp nguyên liệu, nguồn nhân lực, hướng tiêu thụ sản phẩm, hiệu quả kinh tế, khả năng hoàn trả vốn vay của dự án…

Khi xem xét, thẩm định và đi đến quyết định chấp nhận hay từ chối cho vay một DAĐT  của khách hàng phải quán triệt các nguyên tắc: Phù hợp với nguồn vốn của ngân hàng cho vay, nghĩa là không vượt quá khả năng nguồn vốn hiện có và sẽ huy động được dùng vào cho vay trung và dài hạn của bản thân ngân hàng cho vay; phù hợp với quyền phán quyết cho vay trung, dài hạn mà ngân hàng cấp trên dành cho giám đốc ngân hàng đó trong lĩnh vực cho vay trung và dài hạn; phù hợp với chính sách ưu tiên trong đầu tư và cơ cấu đầu tư đã được quy định. Trường hợp chấp nhận cho vay do kết quả thẩm định DAĐT  xin vay, ngân hàng phải thông báo bằng văn bản trong thời hạn quy định để khách hàng vay kịp thời đến ngân hàng lập hồ sơ nhận nợ. Trường hợp từ chối phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do để khách hàng biết.

Hồ sơ thụ lý cho vay DAĐT  của khách hàng chính là hợp đồng tín dụng được ký kết giữa ngân hàng cho vay và khách hàng. Trong hợp đồng này phải xác định rõ đối tượng vay, mức vay, thời hạn vay, lãi suất, kế hoạch trả nợ, bảo đảm tiền vay, quyền và nghĩa vụ của bên cho vay…

Dựa vào mức cho vay ghi trên hợp đồng tín dụng ngân hàng cho vay tổ chức việc giải ngân, tức là phát tiền vay để khách hàng vay sử dụng tiền vay vào việc thực thi DAĐT  xin vay.

Tiền cho vay được ngân hàng cho vay phát ra theo tiến độ thực hiện DAĐT  xin vay, được phản ánh kịp thời và chính xác vào tài khoản cho vay, khế ước vay nợ và các chứng từ  hợp lệ khác.

Ngân hàng cho vay theo dõi chặt chẽ tiến độ thực hiện DAĐT  xin vay cho đến khi DAĐT  kết thúc và các công trình của dự án  được đưa vào thực hiện có hiệu quả, khách hàng vay trả xong nợ cho ngân hàng cho vay kể cả nợ gốc và lãi.

1.3.3. Thẩm định dự án đầu tư

Thẩm định DAĐT  là nhân tố ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả tín dụng trung và dài hạn.

Thẩm định DAĐT  là một mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay dự án đầu tư. Thực chất của nó là dùng một số kỹ thuật phân tích, đánh giá toàn bộ các vấn đề, các phương diện trình bày trong dự án theo một số tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật và theo một trình tự hợp lý chặt chẽ nhằm rút ra những kết luận chính xác về giá trị của dự án, từ đó có quyết định cho vay đúng mức, chắc chắn mang lại hiệu quả kinh tế dự định.

Đối với các ngân hàng thương mại việc thẩm định các DAĐT  xin vay có thể dựa vào kết quả thẩm định của các tổ chức thẩm định chuyên nghiệp nhà nước hay dân lập. Trong trường hợp này, trách nhiệm của ngân hàng là phải có khả năng đánh giá chất lượng thẩm định dự án được thực hiện bởi một tổ chức thẩm định nào đó.

Trong trường hợp DAĐT  xin vay cỡ vừa và nhỏ, thời hạn thu hồi vốn không quá 5 năm, ngân hàng phải tự thực hiện thẩm định DAĐT  xin vay. Dù tái thẩm định hay tự thẩm định thì ngân hàng cũng đều cần đến đội ngũ cán bộ tín dụng đủ năng lực đánh giá DAĐT  xin vay và từ đó đưa ra kết luận chấp nhận hay từ chối tài trợ đối với DAĐT  xin vay.

Muốn thẩm định hay tái thẩm định một DAĐT  xin vay có kết quả mong muốn phải tuân thủ quy trình thẩm định, nghĩa là phải đi từ khâu thu thập thông tin cần thiết cho việc đánh giá dự án đầu tư, xử lý thông tin bằng những phương pháp thẩm định nhất định và đi đến những kết quả cụ thể và xác đáng được ghi trong tờ trình thẩm định dự án đầu tư.

Xét về nội dung thẩm định dự án, người ta thường thực hiện thẩm định ba mặt cơ bản là phương diện kỹ thuật, phương diện kinh tế và phương diện tài chính.

Thẩm định DAĐT  về phương diện kỹ thuật là đi sâu nghiên cứu và phân tích các yếu tố kỹ thuật và công nghệ, thiết bị chủ yếu của DAĐT  để đảm bảo tính khả thi của DAĐT  khi thi công xây dựng cũng như khi vận hành công trình đã hoàn thành. ở đây, người ta chú ý đến sự phù hợp của quy mô DAĐT  với khả năng tiêu thụ sản phẩm, nguồn cung cấp nguyên vật liệu, năng lực, năng lực quản lý của doanh nghiệp. Sự lựa chọn thiết bị và công nghệ của dự án đầu tư, sự cung ứng nguyên vật liệu và các yếu tố đầu vào, sự lựa chọn địa điểm xây dựng công trình, việc quản lý dự án từ khi thai nghén đến khi kết thúc đưa vào sử dụng.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Thẩm định về mặt kinh tế xã hội của DAĐT  là xét đến hiệu ích của dự án trên quan điểm vĩ mô. Nó thường được xem xét dựa trên một số chỉ số sinh lời xã hội như : mức đóng góp của DAĐT  cho nền kinh tế do tiết kiệm chi phí nhập khẩu của các sản phẩm nhập khẩu tuơng tự, chỉ số hoàn vốn, mức gia tăng việc làm, mức đóng góp vào ngân sách nhà nước, mức tích luỹ…Đồng thời ở đây người ta còn xem xét ảnh hưởng của dự án đến môi trường, đến sinh hoạt văn hoá và đến sự phát triển kinh tế của địa phương.

Thẩm định phương diện tài chính của DAĐT  là phân tích, đánh giá, kết luận việc sử dụng các nguồn lực tài chính trong tài trợ, khả năng sinh lời, khả năng hoàn trả nợ, khả năng ứng phó trước thử thách trong quá trình đưa DAĐT  vào thực hiện.

Xét về phương pháp thẩm định DAĐT  người ta có thể áp dụng ba phương pháp cơ bản:

Phương pháp phân tích so sánh: Đây là phương pháp được sử dụng nhiều nhất. Người ta so sánh các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật ghi trong DAĐT  với các tài liệu; các định mức kinh tế kỹ thuật hiện hành; các tiêu chuẩn của ngành, của cả nước; các chỉ tiêu trước khi mở rộng, cải tạo; các chỉ tiêu tương tự của các công trình cùng loại của nước ngoài; các văn bản pháp lý có liên quan.

Phương pháp phân tích độ nhậy của dự án đầu tư: Dựa vào một số tình huống bất trắc có thể xảy ra trong tương lai và những tác động của chúng đến các chỉ tiêu hiệu quả, như sự vượt quá chi phí đầu tư ban đầu, sản lượng đạt thấp so với dự kiến, giá đầu vào tăng, giá tiêu thụ sản phẩm giảm…mà xác định độ sai lệch an toàn cho phép DAĐT  vẫn có hiệu quả, nếu không thì phải áp dụng những giải pháp khắc phục hay hạn chế.

Phương pháp hạn chế rủi ro: Lượng định một số rủi ro có thể xảy ra và những giải pháp hạn chế thích hợp thuộc giai đoạn thi công thực hiện và vận hành dự án đầu tư.

1.4 . Nguồn vốn cho vay dự án đầu tư của các ngân hàng thương mại.

Một trong những vấn đề sống còn đối với mỗi ngân hàng thương mại là phải bảo đẩm khả năng thanh toán của mình. Để đảm bảo yêu cầu này thì hoạt động cho vay của ngân hàng phải gắn bó chặt chẽ, dựa trên nền tảng nguồn vốn mà ngân hàng có được. Nghĩa là cơ cấu cho vay phải phù hợp với cơ cấu nguồn vốn, các khoản cho vay DAĐT  cần phải được hình thành nên từ những nguồn vốn ổn định và có thời gian dài tương ứng. Theo nguyên tắc đó thì nguồn vốn cho vay DAĐT  bao gồm: Vốn tự có của ngân hàng thương mại; vốn huy động dưới hình thức tiền gửi trung dài hạn kể cả một phần vốn huy động ngắn hạn; vốn uỷ thác của Chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước; vay nước ngoài; vay từ ngân hàng trung ương… Mỗi nguồn vốn trên lại có những ưu nhược điểm và tuỳ từng điều kiện cụ thể mà các ngân hàng thương mại sẽ quyết định sử dụng nguồn vốn nào thích hợp nhất đối với mình.

Nguồn vốn tự có của ngân hàng là nguồn ổn định nhất tuy nhiên khối lượng của nó lại không lớn; nguồn tiền gửi trung và dài hạn cũng không đáng kể do không nhiều khách hàng sử dụng loại hình tiền gửi này của các ngân hàng thương mại; phát hành trái phiếu lại có chi phí cao hơn so với tiền gửi cùng số lượng; vốn vay từ NHTW cũng bị hạn chế và phụ thuộc vào chính sách tiền tệ quốc gia (thông thường NHTW chỉ cho các NHTM vay ngắn hạn, thậm chí trong trường hợp NHTW đang có chủ trương thắt chặt tiền tệ thì các NHTM còn không được vay); việc sử dụng một phần vốn huy động ngắn hạn để cho vay đối với các DAĐT  là một trong những phương án khả thi song để tránh những rủi ro có thể xảy ra những người làm công tác quản trị ngân hàng cũng cần phải tính toán tỷ lệ trích chuyển. Trong điều kiện hiện nay, hình thức vay nợ nước ngoài để cho vay dự án được khá nhiều ngân hàng trên thế giới đặc biệt là ở các nước đang phát triển sử dụng (ưu điểm của nguồn vốn này là khối lượng lớn, lãi suất lại thường được ưu đãi, hơn nữa điều kiện cho vay lại không quá khó khăn). Tuy nhiên, nếu việc quản lý, sử dụng nguồn vốn này không được thực hiện tốt dẫn đén không hoàn trả được vốn vay thì sẽ làm mất uy tín đồng thời tăng sự phụ thuộc của các ngân hàng trong nước vào ngân hàng và các tổ chức tài chính tín dụng nước ngoài.

1.5. Các nhân tố ảnh hưởng hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn

1.5.1. Quan niệm về hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn

            Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển, tất yếu phải không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động để sao cho có hiệu quả. Theo khái niệm tổng quát nhất thì hiệu quả là mối quan hệ so sánh giữa kết quả thu được với chi phí cần thiết nhằm đạt được kết quả đó. Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn được hiểu theo đúng nghĩa là vốn cho vay dự án trung và dài hạn của ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh, dịch vụ… để tạo ra một số tiền lớn hơn vừa để hoàn trả ngân hàng gốc và lãi vừa trang trải chi phí khác và có lợi nhuận.

            Do hoạt động cho vay DAĐT  trung và dài hạn của NHTM là một hoạt động quan trọng, có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nói chung và Ngân hàng nói riêng nên hiệu quả cho vay được đánh giá dựa trên hai quan điểm có quan hệ chặt chẽ, bổ sung cho nhau, không thể tách rời:( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

            – Hiệu quả cho vay cao hay thấp thể hiện ở chỗ nó đã làm gì để góp phần thực hiện các chỉ tiêu kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.

– Hiệu quả cho vay còn thể hiện trực tiếp ở lợi nhuận của dự án.    

Phân tích và đánh giá đúng hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn, xác định được nguyên nhân của những tồn tại trong lĩnh vực này sẽ giúp ngân hàng tìm được những biện pháp quản lý thích hợp .

1.5.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn:

 * Nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư trung và dài hạn là cần thiết để phát triển kinh tế.

            Cho vay DAĐT trung và dài hạn thúc đẩy sản xuất phát triển vì nó là một loại đầu tư theo chiều sâu nhằm mở rộng sản xuất, tăng quy mô, năng lực sản xuất kinh doanh, tăng thêm sản lượng và chất lượng cho sản phẩm. Khi một dự án đi vào hoạt động, nó làm mở rộng sản xuất với máy móc thiết bị công nghệ, cơ sở vật chất kỹ thuật được trang bị đầy đủ là cho năng lực sản xuất kinh doanh tăng lên, sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra không những nhiều hơn về số lượng, mà còn đa dạng về mẫu mã, phong phú về chủng loại và chất lượng cao, từ đó có thể kích thích nhu cầu xã hội và xuất khẩu ra nước ngoài. Đầu tư vào các dự án sản xuất máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất thì năng suất lao động sẽ tăng lên, tiết kiệm được một khoản ngoại tệ lớn do không phải nhập máy móc thiết bị từ nước ngoài. Khi tốc độ phát triển sản xuất càng cao, nhu cầu vốn lưu động càng lớn, tạo thị trường sử dụng vốn ngắn hạn. Trong điều kiện đó, hiệu quả  cho vay ngày càng được quan tâm.

Đảm bảo hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung tâm thanh toán. Khi hiệu quả cho vay trung và dài hạn được nâng cao sẽ tăng vòng quay vốn cho vay, với một lượng tiền như cũ có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.

Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, nghiệp vụ cho vay DAĐT  trung và dài hạn của ngân hàng thương mại đã trực tiếp làm giảm khối lượng tiền trong lưu thông, là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Bởi vậy nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn sẽ tạo khả năng giảm bớt tiền thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát ổn định tiền tệ, tăng uy tín quốc gia.

Nâng cao hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn là công cụ thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực. Thông qua sự đánh giá, phân tích hiệu quả của các DAĐT  trung dài hạn đã góp phần khai thác mọi tiềm năng về tài nguyên, lao động và tiền vốn để tăng năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động …  Mặt khác, cho vay DAĐT  trung dài hạn cũng tạo nguồn thu vững chắc cho ngân sách Nhà nước: Trong trường hợp sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ với khối lượng lớn, ổn định sẽ tạo ra nguồn thu cho ngân sách từ thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế sử dụng tài nguyên. Do đó hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.

Hiệu quả cho vay DAĐT  trung dài hạn góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong xu thế nền kinh tế thế giới và các nước trong khu vực đã và đang phát triển, muốn không bị tụt hậu thì nước ta phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhằm tạo thêm việc làm, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân dân. Để công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công cần huy động nhiều vốn, gắn với sử dụng vốn có hiệu quả. Cho vay DAĐT  trung và dài hạn là một trong những kênh quan trọng, hiệu quả để thực hiện nhiệm vụ này.

 * Nâng cao hiệu quả  cho vay quyết định sự tồn tại và phát triển của các ngân hàng thương mại.

            Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn được nâng cao làm tăng vòng quay vốn cho vay, tạo thêm nguồn vốn, tăng khả năng cung cấp dịch vụ của ngân hàng có điều kiện thu hút được nhiều khách hàng.Tạo ra một hình ảnh đẹp về uy tín của ngân hàng và sự gắn bó trung thành của khách hàng với ngân hàng.

            Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn làm tăng khả năng sinh lời của các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng thông qua việc giảm chi phí nghiệp vụ, quản lý và các chi phí thiệt hại khác.

            Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh.

            Hiệu quả cho vay DAĐT  trung và dài hạn tạo thuận lợi cho sự phát triển bền vững của ngân hàng. Chính nhờ có hiệu quả cao trong cho vay DAĐT  trung và dài hạn ngân hàng có nhiều khách hàng trung thành, uy tín và sản xuất kinh doanh có hiệu quả, đó là cơ sở đem lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng. Như vậy hiệu quả cho vay sẽ củng cố thêm mối quan hệ xã hội của ngân hàng .

Từ những ưu thế trên, việc củng cố và nâng cao hiệu quả cho vay trung và dài hạn là điều cần thiết cho tồn tại và phát triển lâu dài của NHTM.

1.7. Kinh nghiệm của ngân hàng một số nước trên thế giới và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

1.7.1 Kinh nghiệm của Pháp        

Để đảm bảo an toàn tín dụng, Luật ngân hàng quy định các tổ chức tín dụng phải chấp hành các chỉ tiêu về quản lý, nhằm đảm bảo khả năng sẵn sàng chi trả và khả năng sẵn sàng thanh toán cũng như sự cân bằng về cơ cấu tài chính của họ. Đặc biệt là các tổ chức này phải luôn tuân thủ các hệ số bù đắp và phân tán rủi ro. Các tổ chức tín dụng phải thường xuyên chấp hành các hệ số sau đây:

Hệ số vốn tự có/toàn bộ tài sản có rủi ro nội bảng và ngoại bảng của tổ chức quy định là 8%.

Hạn mức cho vay một khách hàng hay một tập đoàn tối đa không vượt quá 40% vốn tự có.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Thi hành các công tác tín dụng.

Có hệ thống quản lý nội bộ NHTM, vừa để kiểm tra sự phù hợp của các nhiệm vụ và các quy tắc nội bộ với các điều kiện pháp quy hiện hành và tập quán nghề nghiệp, vừa giám sát chất lượng thông tin tài chính được phổ biến cho các bộ phận thừa hành và kế hoạch, cũng như cho các cấp giám sát hay cho những người thứ ba.

1.7.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc và Malaysia

Tại Hàn Quốc, luật nước này quy định về các loại quỹ bảo đảm tín dụng khi đầu tư tín dụng nói chung và đầu tư dự án nói riêng.

Quỹ bảo lãnh tín dụng được thành lập năm 1976, nhằm cấp bảo đảm cho các khoản nợ đầu tư trung và dài hạn cho các công ty kinh doanh có vấn đề. Quỹ bảo đảm tín dụng công nghệ được thành lập năm 1987, nhằm mục đích cấp bảo đảm tín dụng cho các khoản nợ phát sinh do sử dụng vốn vay áp dụng công nghệ mới. Quỹ bảo lãnh tín dụng nhà ở được thành lập năm 1988, nhằm cấp bảo đảm tín dụng đối với các khoản nợ phát sinh từ việc đầu tư vốn xây dựng nhà ở.

Tại Malaysia, việc đầu tư trung dài hạn để đầu tư dự án có bảo đảm nên là yêu cầu bắt buộc và Ngân hàng nên thực hiện nếu có thể, mặc dù việc bảo đảm chỉ có tầm quan trọng thứ yếu. Có rất nhiều loại bảo đảm và thế chấp mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Nguyên tắc chung là các tài sản càng dễ bán và có giá trị càng ổn định thì càng tốt.

1.7.3 Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.

Qua nghiên cứu một số nét về tình hình quản lý tín dụng ở những nước nói trên, có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau:

Một là, quản lý tín dụng tập trung quản lý tài sản có. Thông qua việc xếp loại các tài sản có và trích lập quỹ dự phòng, NHTM vừa giám sát được hiệu quả tín dụng, vừa có biện pháp kịp thời để bù đắp  rủi ro mất vốn, đảm bảo khả năng thanh toán khi cần thiết.

Hai là, nâng cao trách nhiệm và bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hiệu quả của các cơ quan chức năng trong việc thực thi các quy định về an toàn tiền gửi, an toàn trong đầu tư dự án của NHTM.

Ba là, giao quyền tự chủ cho NHTM trong việc quy định biện pháp bảo đảm an toàn cho vay. Nhưng nguyên tắc cao nhất là dựa trên năng lực tài chính uy tín của khách hàng, nắm chắc tình hình kinh doanh của Công ty mẹ. Tài sản bảo đảm tiền vay phải dễ chuyển đổi thành tiền khi cần thiết; coi trọng việc bảo lãnh của bên thứ ba có uy tín.

Bốn là, phát triển nâng cao hiệu quả hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng, góp phần hạn chế rủi ro đầu tư dự án.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Xem thêm: Kiến nghị – Giải Pháp nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng

CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG 3

1.1. Tổng quan về cho vay trung và dài hạn của NHTM

1.1.1. Khái niệm cho vay trung và dài hạn

            Cho vay là “một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Nghiệp vụ cho vay có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: căn cứ vào tài sản thế chấp, căn cứ vào hạn mức tín dụng, căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay, căn cứ vào thời gian vay. Theo tiêu thức thời gian vay, cho vay được chia ra thành: cho vay ngắn hạn (cho vay theo đặc điểm tuần hoàn và luân chuyển của vốn) thường để bổ sung cho cho vốn lưu động của khách hàng; ngược lại cho vay trung và dài hạn là để bổ sung cho tài sản cố định của người đi vay nhằm phát triển sản xuất theo chiều rộng và chiều sâu.

            Cho vay trung và dài hạn của ngân hàng là các khoản cho vay có thời hạn trên 01 năm nhưng không dài hơn thời gian sử dụng còn lại của tài sản hình thành bằng vốn vay. Việc phân định cụ thể thời gian của cho vay trung hạn và dài hạn tuỳ thuộc vào quy định của mỗi quốc gia. Ở Việt Nam, theo “Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”[2] thì: “Cho vay trung hạn là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng; Cho vay dài hạn là các khoản cho vay có thời hạn cho vay từ trên 60 tháng trở lên”.

1.1.2.Vai trò của cho vay trung và dài hạn

  • Vai trò của cho vay trung và dài hạn đối với NHTM
  • Mang lại lợi nhuận cao hơn cho vay ngắn hạn

Trong các loại tài sản của ngân hàng thì khoản mục cho vay bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất (thường là 70%) và là khoản mục mang lại thu nhập chủ yếu cho ngân hàng. Trong tổng thể các hoạt động cung cấp dịch vụ của NHTM thì chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù đắp nổi các chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế và các chi phí rủi ro đầu tư… Hoạt động cho vay trung và dài hạn tuy chiếm tỷ trọng nhỏ do tính rủi ro cao nhưng cũng chính tính rủi ro của những khoản cho vay này lại đem lại lợi nhuận cao hơn các khoản cho vay ngắn hạn của NHTM. Thu nhập từ tiền cho vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay phụ thuộc chủ yếu vào thời hạn món vay. Thời hạn cho vay càng dài thì lãi suất càng cao và do đó thu nhập của ngân hàng càng lớn. Do đó, ngân hàng nào càng mở rộng cho vay trung và dài hạn thì càng có cơ hội kiếm lời nhiều hơn.

  • Mở rộng thị phần cho NHTM

Nguồn huy động vốn trung và dài hạn – cơ sở để phát triển cho vay trung và dài hạn của NHTM là nguồn khan hiếm và đắt đỏ do đó khả năng mở rộng tín dụng trung và dài hạn thể hiện tiềm lực về vốn của ngân hàng góp phần làm tăng uy tín của ngân hàng. Đó là cơ sở để tạo lòng tin cho các khách hàng hiện tại và khách hàng tương lai. Hơn thế nữa, phát triển cho vay trung và dài hạn còn được coi là một vũ khí cạnh tranh lợi hại. Bởi lẽ, doanh nghiệp được vay vốn trung và dài hạn họ sẽ có điều kiện để đầu tư đổi mới công nghệ, máy móc thiết bị mở rộng sản xuất, … do đó sẽ nảy sinh nhu cầu cần vốn lưu động. Bên cạnh việc mở rộng sản xuất kinh doanh thì nhu cầu về thanh toán, bảo lãnh, tư vấn, … cũng từ đó mà phát triển. Trong trường hợp đó, ngân hàng mà doanh nghiệp đã vay nợ trung và dài hạn sẽ là địa chỉ đầu tiên mà doanh nghiệp tìm tới cho các nhu cầu về vốn, cũng như các dịch vụ ngân hàng khác phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh.

  • Góp phần nâng cao chất lượng các khoản cho vay của NHTM

Một khi đã đồng ý cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng trung và dài hạn với khách hàng nghĩa là NHTM đó đã xác định sẽ tạo lập quan hệ lâu dài với khách hàng đó. Quan hệ lâu dài không chỉ giới hạn trong khoảng thời gian dài của một khoản vay mà là nhiều khoản vay khác nữa sau đó. Hơn thế nữa,  thì việc phát triển cho vay trung và dài hạn còn góp phần đảm phát triển các khoản cho vay ngắn hạn và các dịch vụ khác của ngân hàng . Mối quan hệ này được tạo lập dựa trên quá trình thẩm định kỹ càng khách hàng do đó sẽ đảm bảo tính an toàn cho những khoản vay. Như vậy thông qua cho vay trung và dài hạn NHTM tạo sự gắn bó với khách hàng, tạo ra nhóm khách hàng trung thành của NHTM, là cơ sở nâng cao chất lượng tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Như vậy, một mặt thì do nhu cầu khách quan của nền kinh tế, mặt khác để đạt được mục tiêu phát triển cho chính mình thì đối với các NHTM cho vay trung và dài hạn luôn là mảng kinh doanh đầy tiềm năng.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

  • Đối với nền kinh tế

Cho vay trung và dài hạn của NHTM góp phần giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước cũng như nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nó là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển và ngành kinh tế mũi nhọn. Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển bằng việc cho vay ưu đãi với lãi suất thấp, thời gian dài, mức vốn lớn. Bên cạnh đó Nhà nước còn có thể tài trợ cho những ngành kinh tế mũi nhọn – các ngành này phát triển sẽ tạo cơ sở cho các ngành kinh tế khác phát triển theo. Bên cạnh đó, khi cho vay thì một trong những yêu cầu đầu tiên mà ngân hàng đặt ra là phải đảm bảo được tính an toàn. Chính vì vậy mà ngân hàng luôn có các biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ trước, trong và sau khi cho vay đối với mọi dự án. Và cũng không giống như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách Nhà nước, nguồn vốn từ ngân hàng được cấp dựa trên nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, vì vậy người đi vay sẽ phải đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Đây chính là điểm ưu việt của nguồn vốn vay trung và dài hạn của NHTM so với nguồn từ ngân sách Nhà nước.

Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, nguồn vốn trung và dài hạn là một nhân tố quan trọng thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH. Thêm vào đó, nó là công cụ đòn bẩy thúc đẩy mạnh mẽ phát triển kinh tế hàng hoá, hình thành và góp phần ổn định nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, thị trường tài chính – tiền tệ, nhất là thị trường vốn chưa phát triển thì toàn bộ áp lực về vốn trung và dài hạn đang dồn lên vai các ngân hàng.

1.1.3. Đặc điểm của cho vay trung, dài hạn của NHTM

  • Mục đích cho vay

“Bên cho vay cho bên vay vay vốn trung hạn và dài hạn để đầu tư cho các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ nhằm mục tiêu lợi nhuận, phù hợp với chính sách phát triển kinh tế – xã hội và pháp luật của Nhà nước”

Cho vay trung và dài hạn của NHTM nhằm tài trợ vốn cho việc hình thành tài sản cố định của khách hàng. Cụ thể là:

Cho vay trung hạn là loại cho vay vốn được sử dụng để tài trợ cho tài sản cố định như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết bị chóng bị hao mòn; cải tiến đổi mới kỹ thuật và sản phẩm; mở rộng sản xuất kinh doanh; xây dựng các dự án có quy mô nhỏ và có thời gian thu hồi vốn nhanh…

Cho vay dài hạn là loại cho vay được sử dụng tài trợ cho công trình xây dựng và cải tạo như nhà, cầu đường, máy móc thiết bị có giá trị lớn, thường có thời gian sử dụng lâu dài.         

  • Đối tượng cho vay

Cho vay trung và dài hạn của NHTM xác định đối tượng cho vay: “ Là các chi phí cấu thành trong tổng mức đầu tư của dự án đầu tư xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ,  bao gồm: giá trị vật tư, máy móc, thiết bị, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh; chi phí nhân công; giá thuê và chuyển nhượng đất đai; giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ Luật định; chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư; chi phí khác

  • Nguồn hình thành nguồn vốn trung và dài hạn của NHTM

Tín dụng trung, dài hạn hình thành từ 5 nguồn: vốn chủ sở hữu; vốn huy động dài hạn (trái phiếu, tiền gửi dài hạn); huy động ngắn hạn; vay nước ngoài; vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư của Nhà nước, của tổ chức kinh tế – tài chính – tín dụng – xã hội ở trong và ngoài nước

Vốn chủ sở hữu hình thành do vốn góp hay do tích luỹ được trong quá trình kinh doanh có vai trò rất quan trọng. Nó góp phần xác định quy mô và cơ cấu của ngân hàng, tăng khả năng mở rộng cho vay và đầu tư, đặc biệt là trung và dài hạn. Số vốn này thuộc về sở hữu của NHTM nên dùng để cho vay trung và dài hạn là khá an toàn. Tuy nhiên vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ trọng nhỏ, thường chỉ từ 5% đến 7% nên không dễ dàng mở rộng cho vay.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Nguồn hình thành từ hoạt động phát hành trái phiếu của ngân hàng và huy động tiền gửi dài hạn của khách hàng: Nguồn từ phát hành trái phiếu không có tính thường xuyên và cũng chỉ chiếm từ 4% đến 6,7% lượng vốn mà NHTM huy động được. Còn nguồn từ tiền gửi dài hạn của khách hàng tại ngân hàng thì còn hạn chế về cả khối lượng và thời gian gửi. Hơn nữa lãi mà ngân hàng phải trả cho tiền huy động dài hạn lại cao hơn khi huy động ngắn hạn. Do đó nguồn này được xem là khan hiếm và đắt đỏ.

Nguồn do huy động ngắn hạn chiếm tới 70% tổng lượng vốn huy động của NHTM do đó có thể xem đây là một nguồn dồi dào. Và với công cụ chuyển hoán kỳ hạn thì nguồn ngắn hạn có thể dùng để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên NHNN cũng quy định một tỷ lệ tối đa cho việc chuyển hoán này nhằm hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay của NHTM.

Vay nợ nước ngoài: việc vay nợ nước ngoài để có nguồn vốn cho vay trung và dài hạn phổ biến ở các ngân hàng trên Thế giới. Nguồn này có khối lượng lớn, lãi suất phù hợp, chất lượng vốn cao nhưng đối với các nước đang phát triển như nước ta do trình độ quản lý còn thấp nên hiệu quả sử dụng vốn không cao sẽ dễ dẫn tới tình trạng không trả được nợ.

Nguồn vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ để cho vay theo chương trình hoặc dự án đầu tư là nguồn chỉ có tính chất thời điểm.

Tóm lại, nguồn vốn cho vay trung và dài hạn của các NHTM hiện nay còn rất hạn hẹp. Nguồn vốn hạn hẹp dẫn tới khả năng cho vay trung và dài hạn của các ngân hàng là không đáng kể, hạn chế mở rộng quan hệ của ngân hàng với khách hàng.

  • Lãi suất khoản vay

            Theo cấu trúc rủi ro lãi suất thì “thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao”. Nguyên nhân là, thời hạn cho vay chính là thời gian sử dụng vốn nên thời hạn càng dài giá trị sử dụng càng lớn thì lãi suất càng cao. Hơn nữa, thời gian càng dài thì xác suất để món vay gặp rủi ro càng lớn. Đó là lý do mà NHTM định  ra mức lãi suất của các khoản cho vay trung và dài hạn thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, không những để bù đắp cho chi phí của việc huy động vốn dài hạn mà còn nhằm mục đích bù lại những thiệt hại có thể xẩy ra. Đó là chưa kể đến việc ngân hàng sẽ mất cơ hội sử dụng khoản cho vay một cách linh hoạt trong khoảng thời gian dài của một hợp đồng tín dụng. Mức lãi suất cho vay do NHTM và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của NHNN

. Lãi suất áp dụng ở đây có thể là cố định suốt thời hạn vay vốn (gọi là lãi suất cố định), cũng có thể là lãi suất biến đổi tuỳ thuộc sự biến động của thị trường (gọi là lãi suất thả nổi). Tuy nhiên với các khoản cho vay có thời gian là trung và dài hạn thì NHTM thường áp dụng lãi suất thả nổi nhằm đảm bảo cả hai mục tiêu là an toàn và sinh lợi.

  • Vai trò của vốn vay trung và dài hạn từ NHTM đối với DNNQD
  • Giúp giải quyết nhu cầu đầu tư dài hạn của DNNQD

Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, nhất là trong thời buổi hội nhập kinh tế toàn cầu hiện nay thì để đảm bảo cho khả năng tồn tại và phát triển của mình, các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư cả về chiều rộng và chiều sâu. DNNQD luôn có nhu cầu về vốn trung và dài hạn để mua sắm trang thiết bị, xây dựng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ,… nhằm thoát khỏi tình trạng quy mô nhỏ hẹp, kỹ thuật và công nghệ lạc hậu hiện nay. Vốn vay trung và dài hạn của góp phần đáp ứng nhu cầu này để duy trì quá trình sản xuất được liên tục và phát triển. Điều này càng trở nên đặc biệt quan trọng đối với các DNNQD trong sự cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường.

DNNQD có 03 nguồn để huy động vốn trung và dài hạn là từ thị trường phi chính thức, từ thị trường chứng khoán và từ NHTM. Tuy nhiên thì việc sử dụng vốn qua hệ thống NHTM dưới hình thức cho vay trung và dài hạn vẫn là quan trọng và khả thi nhất.

  • Không làm ảnh hưởng tới quyền kiểm soát của doanh nghiệp

            Việc vay nợ trung và dài hạn từ NHTM giúp chủ doanh nghiệp có thể kiểm soát toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp ưa huy động vốn vay nhằm tránh phát hành cổ phiếu – hình thức huy động vốn sẽ dẫn đến sự phân chia quyền lợi kiểm soát đối với doanh nghiệp

Tài sản cố định nói chung của doanh nghiệp được tài trợ bằng cách tăng vốn cổ phần và vay nợ dài hạn. Tuy nhiên việc sử dụng vốn vay trung và dài hạn tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn việc doanh nghiệp phát hành thêm cổ phiếu. Ưu thế của vốn vay trung và dài hạn so với việc phát hành cổ phiếu thể hiện qua 3 mặt như sau: Thứ nhất, mức lãi suất phải trả cho khoản vay trung và dài hạn thường nhỏ hơn tỷ lệ lợi tức cổ phần cần thiết để thu hút vốn cổ phần bởi vì các khoản vay có mức rủi ro thấp hơn. Thứ hai, tiền trả lãi của các món nợ được khấu trừ vào thuế, trong khi đó tiền chia lợi tức cổ phần thì không được khấu trừ. Thứ ba, dựa vào nguồn vốn trung và dài hạn đi vay, doanh nghiệp sẽ tránh được sự thiếu tập trung trong biểu quyết vì các chủ nợ không có quyền bỏ phiếu. Ưu thế của vốn vay trung và dài hạn so với trái phiếu là ở tính linh hoạt. Đối với một số doanh nghiệp xếp hạng cao đủ tiêu chuẩn phát hành trái phiếu thì trái phiếu phát hành ra cũng phải có thời hạn 20 đến 30

  • Ưu thế của vốn vay trung dài hạn so với vốn vay ngắn hạn với những dự án đầu tư.

Doanh nghiệp sử dụng vốn ngắn hạn cho nhu cầu trung và dài hạn thì kéo theo tình trạng phải thường xuyên tái tài trợ với những tỷ lệ lãi suất có thể dao động lớn. Thêm vào đó, nếu nợ ngắn hạn sử dụng tài trợ cho đầu tư dài hạn sẽ tạo ra thêm một số yếu tố rủi ro, nhất là khả năng cung cấp vốn cho đầu tư của doanh nghiệp bị phụ thuộc vào khả năng thu hút các khoản nợ ngắn hạn được gia hạn thường xuyên. Vào những thời điểm gặp khó khăn tạm thời, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với sự gia tăng đột ngột của các chi phí tín dụng ngắn hạn, hay một sự từ chối gia hạn toàn bộ nợ ngắn hạn từ ngân hàng đều sẽ đẩy doanh nghiệp vào tình trạng không trả được nợ. Vì vậy vay vốn trung và dài hạn từ NHTM không những đảm bảo nguyên tắc: tài sản ngắn hạn được tài trợ bởi nguồn vốn ngắn hạn, tài sản dài hạn được tài trợ bởi nguồn vốn dài hạn mà còn mang lại hiệu quả hoạt động cao hơn cho dự án.

  • Công cụ vay linh hoạt

Vốn vay trung và dài hạn còn có ưu thế so với cổ phiếu và trái phiếu là ở tính linh hoạt của nó. Đối với một số DNNQD xếp hạng cao đủ tiêu chuẩn phát hành trái phiếu thì trái phiếu phát hành ra cũng phải có thời hạn 20 đến 30 năm. Trong suốt thời gian này, doanh nghiệp sẽ phải đối phó với việc trả lãi trái phiếu ngay cả khi việc sử dụng vốn gặp khó khăn hay không cần sử dụng vốn nữa. Trái lại, với vốn vay trung và dài hạn từ NHTM, khi có cơ hội kinh doanh, cần mở rộng sản xuất thì doanh nghiệp tiến hành vay; khi cơ hội không còn vốn có thể được hoàn trả lại cho ngân hàng nhanh chóng. Hơn nữa doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn có thể chủ động điều chỉnh kỳ hạn nợ. Tức là khi không còn cần vốn nữa họ có thể trả nợ sớm thời hạn tín dụng đã ký kết với NHTM.

Việc trả nợ vay trung và dài hạn cũng được ấn định theo sự phân chia ổn định và hợp lý được doanh nghiệp và NHTM thoả thuận cụ thể trong hợp đồng vì vậy mà các doanh nghiệp có thể chủ động tìm kiếm các khoản trả nợ một cách dễ dàng.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

  • Có cơ hội sử dụng các dịch vụ ngân hàng khác

            Do tính chất đặc thù, hệ thống NHTM là một hệ thống kinh doanh tiền tệ nên có nhiều kinh nghiệm trong nắm bắt thị trường, có kinh nghiệm thẩm định các dự án, công trình đầu tư. Vì thế NHTM sẽ đảm bảo hiệu quả quản lý vĩ mô về mặt tốc độ và cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo lợi ích cho các doanh nghiệp thông qua việc soạn thảo giúp doanh nghiệp các dự án đầu tư, tư vấn cho doanh nghiệp về đầu tư, cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, giúp đỡ trong quan hệ thanh toán…

  • Góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của dự án

      Vay vốn trung và dài hạn từ NHTM không chỉ có nghĩa là doanh nghiệp sẽ có vốn cho dự án đầu tư mà còn có nghĩa là doanh nghiệp phải chịu sự kiểm tra, kiểm soát của ngân hàng trước, trong và cả sau khi cho vay. Sự giám sát của ngân hàng là để đảm bảo đồng vốn được sử dụng đúng mục đích, qua đó ngân hàng thúc đẩy việc sử dụng vốn có hiệu quả tài chính của các doanh nghiệp. Sức ép về việc phải hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn cho ngân hàng cũng là động lực để doanh nghiệp phải thực hiện dự án đúng tiến độ nhằm đảm bảo uy tín với ngân hàng cho những món vay tiếp theo.

  • Tác động tới chế độ hạch toán kinh tế của các DNNQD

            Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp tư nhân ở Việt Nam đều không thực hiện chế độ báo cáo thống kê, kế toán theo pháp lệnh hiện hành. Điều này không những gây khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng mà còn cả với hoạt động của các DNNQD. Thông qua quan hệ tín dụng ngân hàng, các cán bộ tín dụng sẽ cố gắng vừa kiểm tra, kiểm soát buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng chế độ hạch toán kinh tế vừa hỗ trợ hướng dẫn các DNNQD xây dựng các báo cáo tài chính. Một mặt, công việc này giúp đỡ cho quá trình hạch toán kế toán của doanh nghiệp, mặt khác nó cũng giúp cho ngân hàng có được những thông tin chính xác về doanh nghiệp mà mình cho vay, hạn chế được rủi ro tín dụng.

            Như vậy, với những ưu điểm kể trên có thể khẳng định rằng vốn vay trung và dài hạn từ NHTM là trợ thủ đắc lực cho DNNQD thoả mãn các cơ hội kinh doanh của mình.

1.2.4.3.Tình hình hoạt động vay trung và dài hạn của NHTM với DNNQD hiện nay

 Trong một thời gian dài các NHTM không cho vay dài hạn, thậm chí cũng không cho vay trung hạn. NHTM đã bỏ hẳn mảng này, để cho ngân hàng phát triển tự do hoạt động. Bắt đầu từ những năm 70 của thế kỷ XX, lĩnh vực các nghiệp vụ cho vay dài hạn mới được NHTM tiến hành từng bước một. Tính đến cuối năm 2004, dư nợ cho vay trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng chiếm gần 40% tổng dư nợ đối với nền kinh tế. Số vốn này chủ yếu được dùng để đầu tư cho các công trình, dự án quan trọng của Nhà nước. Phần còn lại mới được các NHTM cho vay các dự án đầu tư chiều sâu, xây dựng mới các cơ sở sản xuất kinh doanh, đổi mới dây chuyền công nghệ… của doanh nghiệp.

NHTM chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng do đó mà tỷ trọng cho vay trung và dài hạn tại đây thường thấp. Cho vay trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp là do rủi ro cao hơn, kém thanh khoản, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Có nhiều nhân tố ảnh hưởng tới tỷ lệ này như kỳ hạn và tính ổn định của nguồn vốn, khả năng và công cụ quản lý rủi ro thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự phòng rủi ro trong trung và dài hạn …

Hoạt động cho vay trung và dài hạn của NHTM vốn đã hẹp thì lại càng bị bó hẹp hơn với nhu cầu vay của các DNNQD. Các DNNQD muốn vay vốn ngân hàng không phải là chuyện dễ. Nguyên nhân chính của tình trạng này là từ chính bản thân doanh nghiệp vì vốn chủ sở hữu rất thấp, ít có tài sản thế chấp, cầm cố, không có người bảo lãnh; không lập được phương án sản xuất, kinh doanh có đủ sức thuyết phục; trình độ quản lý hạn chế, báo cáo tài chính không đủ độ tin cậy đối với người cho vay… Thêm nữa, các DNNQD còn phản ánh tình trạng ngân hàng quá “cầu toàn” trong việc xác định tài sản thế chấp và chặt chẽ các thủ tục nhằm tránh rủi ro xảy ra. Và không ít doanh nghiệp còn bức xúc về trình độ nghiệp vụ ngân hàng trong thẩm định các dự án của doanh nghiệp khiến nhiều dự án không thể vay được vốn. Bên cạnh đó, hiện nay chưa có đủ các quy định pháp lý đảm bảo cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của ta có thể tiếp cận thường xuyên, nhằm tiến tới khả năng vay vốn từ các tổ chức tài chính bên ngoài một cách rộng rãi và ổn định hơn. Mặc dù các văn bản không có sự phân biệt lớn và trong nhiều trường hợp còn khuyến khích cho vay với DNNQD, nhưng vẫn còn đâu đó thái độ phân biệt đối xử của NHTM với DNNQD. Không thể phủ nhận là DNQD không trả nợ đúng hạn thì tiền vẫn nằm trong tay Nhà nước, và DNQD luôn nhận được sự bao cấp của Nhà nước do đó khả năng vỡ nợ là rất thấp. Chính vì thế rủi ro cho vay với DNQD là thấp hơn nhưng không phải vì thế mà ưu đãi, gia tăng cho vay dù khu vực DNQD phát sinh nhiều khoản nợ xấu trong khi vốn cung cấp cho DNNQD còn rất hạn hẹp

Kết quả một cuộc điều tra hơn 2.800 doanh nghiệp vừa và nhỏ tại 10 tỉnh, thành phố do Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với Tổ chức Danila (Đan Mạch) cuối năm 2007 cho thấy tình trạng phổ biến là có khoảng 35-45% đoanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên từ NHTM nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị từ chối [1]. Số doanh nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 26,5%. Ngoài ra, số doanh nghiệp thuộc nhóm không nộp hồ sơ vay vốn NHTM cũng là do gặp trở ngại như thiếu tài sản thế chấp thích hợp, nhận thức quá trình vay vốn quá khó khăn hoặc do tỷ lệ lãi suất quá cao.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.3. Các nhân tố ảnh hưởng tới  phát triển cho vay trung và dài hạn của NHTM đối với DNNQD

1.3.1. Nhóm nhân tố khách quan

1.3.1.1. Môi trường tự nhiên, kinh tế – chính trị – xã hội

Môi trường tự nhiên, kinh tế – chính trị – xã hội ổn định là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cho vay. Vì sự ổn định của các loại thị trường là điều kiện quan trọng cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường. Theo đó, cho vay nói chung và cho vay trung dài hạn mới có điều kiện mở rộng và nâng cao.

Sự vận động mang tính chu kỳ của nền kinh tế như suy thoái, tăng trưởng, thất nghiệp, khủng hoảng, … ảnh hưởng đến ngân hàng rất lớn. Lạm phát cao làm lãi suất thực tế giảm không mang lại lợi nhuận như mong đợi cho ngân hàng hay những biến động về tỷ giá trên thị trường làm các DNNQD bị thua lỗ giảm khả năng trả nợ cho ngân hàng.

  • Môi trường pháp lý

Môi trường pháp lý bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính hoàn thiện, thống nhất của các văn bản dưới luật, ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể khi tham gia quan hệ tín dụng … đều ảnh hưởng tới sự phát triển của nghiệp vụ cho vay. Một NHTM khi hoạt động phải tuân thủ đầy đủ các quy định về luật pháp của Nhà nước, cũng như của NHQD. Một hệ thống pháp lý đầy đủ, đồng bộ và ổn định sẽ giúp các ngân hàng dễ dàng hơn trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình và phát triển cho vay với nền kinh tế

  • Chính sách của Chính phủ, và NHNN

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mỗi sự thay đổi chính sách kinh tế của Chính phủ (chính sách tiền tệ, chính sách tài chính, chính sách đầu tư, chính sách thương mại …) đều dẫn đến sự thay đổi trong các hoạt động của nền kinh. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động của các doanh nghiệp, nhất là các DNNQD hiện còn chưa được đối xử hoàn toàn bình đẳng trong nền kinh tế. Vì vậy, sự phát triển của cho vay trung và dài hạn đối với DNNQD cũng không tránh khỏi bị ảnh hưởng. 

Một sự thay đổi nhằm khuyến khích cho vay trung và dài hạn đối với các DNNQD từ NHNN (quy định lãi suất cho vay, tỷ lệ tối đa nguồn ngắn hạn được sử dụng cho vay trung và dài hạn, …) đều ảnh hưởng tích cực tới sự phát triển nghiệp vụ này tại các NHTM.

  • Nhu cầu vốn trung và dài hạn của DNNQD

Nhu cầu vốn trung và dài hạn của DNNQD cao hay thấp cũng ảnh hưởng tới sự phát triển cho vay trung và dài hạn của NHTM. Ngay cả khi cung về vốn trung và dài hạn của ngân hàng dồi dào mà cầu vốn trung và dài hạn của DNNQD là nhỏ bé thì ngân hàng cũng không thể phát triển nghiệp vụ này. Tuy nhiên thực tế cho thấy cầu về vốn trung và dài hạn của các DNNQD ngày càng cao. Có thể xem đây chính là cơ sở để cung về vốn trung và dài hạn của NHTM ngày một phát triển. Để thực hiện CNH-HĐH đất nước, vốn trung và dài hạn là rất cần thiết để doanh nghiệp đầu tư phát triển cả chiều rộng và chiều sâu, tạo sức bật cho nền kinh tế. Do đó, NHTM với chức năng cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế nhất thiết phải làm tốt công tác dự báo nhu cầu vay vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp để có kế hoạch khai thác, kinh doanh hợp lý.     

1.3.2. Nhóm nhân tố chủ quan

  • Chính sách tín dụng của NHTM

Chính sách tín dụng của NHTM là một hệ thống các biện pháp liên quan đến việc khuyếch trương hay hạn chế tín dụng nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể của ngân hàng trong từng thời kỳ.

Với ý nghĩa như vậy, rõ ràng chính sách tín dụng có tác động rất lớn tới sự mở rộng tín dụng nói chung, cho vay trung và dài hạn nói riêng. Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng trong thời kỳ nào đó là hạn chế cho vay trung và dài hạn thì quy mô của hoạt động này sẽ bị thu hẹp. Chính sách tín dụng còn bao gồm một loạt các vấn đề như: quy định về điều kiện, tiêu chuẩn cho vay với khách hàng; lĩnh vực tài trợ, … cũng có tác động trực tiếp hay gián tiếp tới hoạt động cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.

  • Quy mô, kỳ hạn và tính ổn định của nguồn

NHTM là các trung gian tài chính trong nền kinh tế thực hiện “đi vay để cho vay”. Do đó nguồn vốn huy động được có dồi dào và bền vững thì mới đảm bảo hoạt động cho vay được tiến hành thuận lợi và an toàn. Quy mô và cơ cấu nguồn vốn quyết định việc ngân hàng lựa chọn các hình thức đầu tư và cho vay.

Hiện nay, người dân chưa có thói quen gửi tiết kiệm trung và dài hạn, mặc dù tiền gửi có kỳ hạn chiếm đến 80% vốn huy động, nhưng tiền gửi có kỳ hạn ngắn (dưới 1 năm) lại chiếm đến 50% vốn huy động. Các NHTM hiện đã có loại hình tiền gửi trung hạn (24, 36 tháng) nhưng chưa thu hút được người dân. Nguyên nhân là do người dân chưa thực sự tin tưởng để có thể gửi tiền dài hạn vào hệ thống ngân hàng; sổ tiết kiệm và các loại hình tiền gửi không có khả năng chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp; chênh lệch về lãi suất giữa gửi tiền dài hạn và ngắn hạn chưa đủ sức hấp dẫn người gửi tiền; những cơn sốt của thị trường bất động sản đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư dài hạn vào bất động sản …( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Trong các nguồn huy động của NHTM dùng cho vay trung và dài hạn thì phù hợp về kỳ hạn nhất và đảm bảo an toàn cho hoạt động của ngân hàng nhất phải kể đến là nguồn huy động trung và dài hạn. Nguyên tắc cơ bản mà NHTM luôn phải tuân thủ khi cho vay là “chỉ được phép cho vay trung và dài hạn khi ngân hàng thực có nguồn vốn trung và dài hạn”. Do đó quy mô của nguồn huy động trung dài hạn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển cho vay trung và dài hạn của ngân hàng.

Bên cạnh đó các nguồn ngắn hạn nếu có tính ổn định cao (tức là người gửi tiền không rút tiền trước hạn vì bất cứ lý do gì) thì cũng có thể sử dụng để cho vay trung và dài hạn trong một giới hạn nhất định mà vẫn đảm bảo an toàn.

  • Công tác dự báo rủi ro và giám sát, xử lý các tình huống khi cho vay trung và dài hạn

Cho vay trung và dài hạn là nghiệp vụ chứa đựng đầy rủi ro cho bất cứ ngân hàng nào. Do đó công tác dự báo và dự phòng rủi ro nếu làm tốt sẽ hạn chế tối đa những tổn thất có thể xảy ra. Công tác dự báo bao gồm dự báo về nguồn huy động, nhu cầu vay của doanh nghiệp, sự biến động của lãi suất trong dài hạn, dự báo về các rủi ro (rủi ro kinh doanh, rủi ro hoàn trả vốn, rủi ro tài chính, rủi ro kinh tế vĩ mô) có thể xảy ra. Làm tốt công tác này, ngân hàng sẽ không rơi vào thế bị động trước những biến động bất thường của thị trường.

Hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian dài của các DNNQD luôn chứa đựng những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được. Chính vì thế mà công tác giám sát và xử lý các tình huống sau khi cho vay cũng có ý nghĩa rất quan trọng. Hoạt động giám sát chủ yếu tập trung vào các vấn đề: sự tuân thủ đúng mục đích sử dụng vốn của doanh nghiệp, tình hình thực tế của dự án, tiến độ trả nợ, … Làm tốt công tác này giúp ngân hàng phát hiện và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực của khách hàng. Đồng thời, thông qua quá trình giám sát hoạt động của doanh nghiệp, ngân hàng có thể có các biện pháp giúp đỡ kịp thời (tư vấn, cung cấp thông tin, vốn) cho các doanh nghiệp gặp khó khăn nhằm giúp dự án của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao nhất, qua đó nâng cao khả năng trả nợ cho ngân hàng.

Xem thêm: Lời kết luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng

CƠ SỞ LÝ LUẬN NÂNG CAO TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG 4

1.1. Khái quát về Habubank.

1.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội(Habubank).

Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội, tên viết tắt Habubank là NHTMCP đầu tiên ở Việt Nam được thành lập từ năm 1989 với mục tiêu ban đầu là hoạt động tín dụng và dịch vụ trong lĩnh vực phát triển nhà. Tiền thân của Habubank là NH Đầu tư và Phát triển Việt Nam kết hợp với các cổ đông bao gồm Uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội và một số doanh nghiệp quốc doanh hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, quản lý nhà và du lịch. Với số vốn điều lệ ban đầu là 5 tỷ đồng, Habubank được phép kinh doanh các sản phẩm và dịch vụ NH trong 99 năm.

Tháng 10 năm 1992, Thống đốc NHNN Việt Nam cho phép NH thực hiện thêm một số hoạt động kinh doanh ngoại tệ gồm tiền gửi, tiết kiệm, vay và tiếp nhận, cho vay, mua bán kiều hối, thanh toán ngoại tệ trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1995 đánh dấu một bước ngoặt đáng chú ý trong chiến lược kinh doanh của Habubank với việc chú trọng mở rộng các hoạt động thương mại nhằm vào đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng các cá nhân và tổ chức tài chính khác bên cạnh việc thực hiện các hoạt động hỗ trợ và phát triển nhà. Thêm vào đó, cơ cấu cổ đông cũng được mở rộng một cách rõ rệt với nhiều cá nhân và doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân tham gia đầu tư đóng góp phát triển.

Trong năm 2008,HBB hoàn thiện dự án nâng cấp hạ tầng dữ liệu thông tin phục vụ cho kinh doanh,quản trị điều hành theo tiêu chuẩn quốc tế.Tháng 2/2008,HBB mở chi nhánh đầu tiên tại khu vực miền trung-Chi nhánh HBB Đà Nẵng.Mở rộng kết nối hệ thống thể của ngân hàng với hệ thống Banknet,hệ thống thể có mạng lưới lớn nhất Việt Nam.Trong năm này HBB cũng hoàn thiện việc đầu tư xây dựng 4 trụ sở mới cho các chi nhánh của Ngân hàng tại TP  HCM,Quảng Ninh,Bắc Ninh và Hà Nội.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

Qua 5 lần tưng vốn điều lệ, đến nay Ngân hàng thương mại cổ phần nhà Hà Nội đã có vốn điều lệ là 2000 tỷ VND.Tới nay, qua hơn 20 năm hoạt động, Habubank đã có mạng lưới ngày càng mở rộng, 8 năm liên tục được NHNN Việt Nam xếp loại A và được công nhận là NH phát triển toàn diện với hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả. Habubank luôn giữ vững niềm tin của khách hàng bằng chất lượng sản phẩm dịch vụ và phong cách nhiệt tình, chuyên nghiệp của tất cả nhân viên.

1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ.

– Phương châm hoạt động.

Habubank cung cấp một cách toàn diện các gói sản phẩm và dịch vụ NH có chất lượng cao, sáng tạo nhằm đáp ứng nhu cầu và mong muốn của từng đối tượng khách hàng đặc trưng với tính chuyên nghiệp cao.

– Chức năng .

 Để tạo ra niềm tin và giá trị cho khách hàng, Habubank đặt mục tiêu cung ứng một cách toàn diện các sản phẩm và dịch vụ NH chất lượng cao, sáng tạo và hữu ích nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu và mong muốn của từng đối tượng khách hàng mục tiêu theo những phân khúc mà Habubank hướng tới tại từng thời điểm qua các kênh cung ứng ngày càng hoàn thiện.

– Nhiệm vụ.

NH được thành lập để tiến hành các hoạt động NH bao gồm: nhận tiền gửi ngắn hạn, trung hạn, dài hạn từ các tổ chức và cá nhân, cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn các tổ chức và cá nhân tùy theo tính chất và khả năng nhiệm vụ của NH;  thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối, chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá, cung cấp các dịch vụ cho khách hàng; các dịch vụ khác khi được NHNN cho phép.

1.1.3. Cơ cấu tổ chức và nhân sự.

– Cơ cấu tổ chức và quản lý rủi ro.

Habubank hiện có mô hình tổ chức báo cáo ít tầng nhằm giảm thiểu tính quan liêu trong hệ thống cũng như nâng cao tính năng động của tổ chức. Đặc tính nổi bật của mô hình Habubank là các đơn vị kinh doanh được cơ cấu tập trung vào lợi nhuận, kiểm soát rủi ro và phân định trách nhiệm rõ ràng.

Rủi ro là một phần gắn liền với mọi hoạt động kinh doanh NH. Kiểm tra và quản lý rủi ro sao cho cân bằng được mối quan hệ rủi ro – lợi nhuận trước hết đòi hỏi một cơ cấu tổ chức phù hợp và chính sách nhất quán trong toàn hệ thống. Do đó, cơ cấu Habubank hoàn toàn được tổ chức theo chiến lược phát triển do Hội đồng Quản trị đề ra và liên quan chặt chẽ đến quản lý rủi ro. Đồng thời tính linh hoạt và giảm thiểu quan liêu cũng luôn được đề cao giúp NH dễ thích ứng và thay đổi khi môi trường kinh doanh biến chuyển.

  • Đại hội đồng cổ đông là cơ quan có nhiệm vụ và quyền hạn cao nhất trong cơ cấu tổ chức của một NHTMCP. Đại hội đồng cổ đông cử ra Ban kiểm soát để giám sát các hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban điều hành.
  • Hội đồng quản trị bao gồm những cổ đông lớn, nắm giữ một tỷ lệ cổ phần nhất định. Hội đồng quản trị sẽ ra những quyết định lớn, và giám sát hoạt động của Ban điều hành.
  • Dưới Hội đồng quản trị có Ủy ban Quản lý tài sản và Ủy ban chính sách tín dụng. Có chức năng và nhiệm vụ quản lý tài sản và quản lý tín dụng, giám sát những hoạt động liên quan của Ban điều hành
  • Ban điều hành chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát. Ban điều hành bao gồm: Tổng giám đốc điều hành và 4 Phó tổng giám đốc.
  •  Tổng Giám đốc điều hành chịu sự kiểm tra giám sát của Hội đồng quản trị có chức năng nhiệm vụ là điều hành mọi hoạt động của NH và quản lý rủi ro thị trường và thanh khoản, nguồn vốn và chiến lược-hợp tác -marketting.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )
  • Dưới Tổng giám đốc điều hành có 4 Phó tổng giám đốc: Phó tổng giám đốc phụ trách mảng kiểm tra xét duyệt tín dụng, Phó tổng giám đốc  phụ trách mảng dịch vụ NHDN và phát triển kinh doanh, Phó tổng giám đốc phụ trách  dịch vụ NH cá nhân, Phó tổng giám đốc phụ trách tài chính và cung ứng dịch vụ. Phó tổng giám đốc phụ trách tài chính và cung ứng dịch vụ còn quản lý rủi ro hoạt động. Ba Phó tổng giám đốc còn lại thì quản lý rủi ro tín dụng.
  • Dưới Ban điều hành còn một loạt các phòng ban chức năng hỗ trợ quản lý và kiểm toán nội bộ:
  • + Văn phòng: hỗ trợ Ban điều hành trong quản lý.
  • + Phòng thanh tra kiểm toán nội bộ: kiểm soát nội bộ
  • + Phòng tài chính kế toán: quản lý, ghi chép tình hình tài chính của NH
  • + Phòng đầu tư: phụ trách mảng đầu tư của NH.
  • + Phòng phát triển kinh doanh: quản lý cả quá trình trước, trong và sau khi cho khách hàng vay vốn
  • + Phòng thanh toán quôc tế: mở L/C, bảo lãnh…
  • + Phòng nghiệp vụ, ngoại hối, ngân hàng: kinh doanh ngoại tệ, đầu tư vào thị trường liên ngân hàng và nghiệp vụ thị trường mở.

Hiện tại, Habubank có 01 Hội sở, 01 Sở giao dịch và 26 chi nhánh, phòng giao dịch với sản phẩm kinh doanh đa dạng gồm dịch vụ NH doanh nghiệp (tài trợ thương mại quốc tế, ngoại hối, quản lý tiền mặt…), dịch vụ NH cá nhân (huy động, cho vay tiêu dùng, mua nhà…) và các hoạt động đầu tư khác trên thị trường chứng khoán.

– Nguồn nhân lực.

Với tốc độ phát triển hoạt động ngành NH và sự cạnh tranh ngày càng cao tên thị trường lao động khi Việt Nam gia nhập WTO, công tác phát triển nguồn nhân lực giữ một vai trò quan trọng trong định hướng chiến lược của bất kỳ NH nào. Năm 2008 đánh dấu một mốc son trong quá trình phát triển của Habubank với những thành công rực rỡ không chỉ ở việc mở rộng quy mô nguồn nhân lực cả về chất và về lượng.

Năm 2008, tổng số nhân viên Habubank là 940 cán bộ ( tăng 1,1 lần so với năm 2007) với tỷ suất gìn giữ nhân viên gần 100%.

 Hội đồng Quản trị và Ban Điều hành luôn coi trọng đội ngũ cán bộ nhân viên và coi họ là tài sản quý giá nhất mà Habubank luôn quan tâm hàng đầu, thể hiện qua việc đầu tư thích đáng vào công tác đào tạo, quản lý chặt chẽ, đối xử công bằng, dân chủ và chính sách đãi ngộ phù hợp. Thêm vào đó, cán bộ nhân viên Habubank luôn được khuyến khích đóng góp đánh giá, phê bình mang tính xây dựng nhằm hoàn thiện một bộ máy lãnh đạo mạnh mẽ, liêm chính, đề cao tinh thần làm việc tập thể. Đây được coi như một quá trình trao đổi giá trị, theo đó, Habubank yêu cầu đội ngũ quản lý và nhân viên đưa ra những đánh giá hoạt động và hỗ trợ lẫn nhau nhằm hoàn thiện bản thân cũng như NH mà họ là thành viên. Đạo đức nghề nghiệp quyết định trực tiếp đến sự phát triển, uy tín và hình ảnh của một doanh nghiệp. Chính vì thế, Habubank luôn đề cao giá trị đạo đức nghề nghiệp. Mỗi cán bộ nhân viên Habubank, từ cán bộ cao cấp đến nhân viên nghiệp vụ, đều cam kết tuân thủ đạo đức nghề nghiệp theo những chuẩn mực quốc tế cao nhất.( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.1.4.2. Hoạt động huy động vốn.

a) Tình hình huy động vốn

Năm 2008 mặc dù chịu ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu nên  tổng huy động của Habubank không tăng lên mà giảm đi tương đối nhiều so với năm 2007(mặc dù 2007 có những biến động lớn về chính sách tiền tệ).Năm 2008 tổng huy động của HBB chỉ đạt 16.022.876 triệu VND trong khi đó năm 2007 là 19.872.363 triệu VND,giảm đi 19,37 % so với năm 2007.

Trong năm 2007 là năm có nhiều biến động trên thị trường tiền tệ.Cạnh tranh ngày càng mạnh vứi sự bùng nổ mạnh lưới ngân hàng, đặc biệt là sự xuất hiện của các ngân hang nông thôn lên thành thị.Ngoài ra,chính sách thắt chặt tiền tệ của NHNHđể kiềm chế lạm phát cũng góp phần làm tăng chi phí vốn cho các ngân hang và đẩy lãi suất huy động lên cao .Lãi suất huy động trên thi trường thời điểm đầu năm,cuối năm chênh lệch nhau rất lớn,dao động trong khoảng 2%-3%.Đặc biệt vào thời điểm cuối tháng 12,thị trường khan hiếm tiền đồng và lãi suất giao dịch tiền đồng bị đẩy lên rất cao.Trong bối cảnh đó,HABUBANK vẫn luôn đảm bảo tốt khả năng thanh khoản,bảo đảm đủ nguồn vốn phục vụ kinh doanh phát triển của ngân hang.

Để đạt được kết quả trên,HABUBANK đã luôn chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ khách hang,duy trì một biểu lãi suất linh hoạt, đa dạng về kì hạn và phong phú về hình thức.Bên cạnh các tài khoản tiền gưỉ và tiền gửi tiết kiệm,trong năm 2007,HABUBANK còn chú trọng đến việc phát hành giấy tờ có giá và đã thành công phát hành hai đợt kỳ phiếu USD cho ngâ hang, đưa ra sản phẩm mới ‘tiết kiệm 3G’ dành cho doanh nhân năng động và sản phẩm tiết kiệm gửi góp được tặng bảo hiểm ‘Tình yêu cho con”dành ch các bậc cha mẹ muốn chuẩn bị một khoản tài chính tưng laic ho con.Ngoài ra,HABUBANK cũng đẩy mạnh công tác chăm sóc khách hang cũ,tiếp thị các doanh nghiệp mới để năng cao số dư tiền gửi tại ngân hang trên cơ sở duy trì một lượng lớn khách hang gắn bó.

b) Chỉ số an toàn vốn

Một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức an toàn của NH là tỷ trọng vốn tự có so với tổng tài sản có rủi ro. Điều 81- Luật các tổ chức tín dụng 12/1997 đã quy định tổ chức tín dụng phải duy trì tỷ lệ đảm bảo an toàn này. Theo thông lệ quốc tế, tỷ trọng này tối thiểu là 8%. Năm 2004 tỷ lệ an toàn vốn của Habubank lầ 8,44%. Tỷ lệ này năm 2005 đạt  8,89%. Đây cũng là một tiêu chí để World Bank tăng hạn mức cho Habubank trong Dự án tài chính Nông thôn II từ 49 tỷ đồng năm 2004 lên 85 tỷ đồng năm 2006. Chỉ số an toàn vốn của Habubank trong năm 2006 đạt 14%.Đến năm 2007 chỉ số an toàn vốn của HABUBANK là 16%.Đây là chỉ số mà Habubank đánh giá là tối ưu trong hoạt động tài chính ở một thị trường đang phát triển và tiềm ẩn nhiều rủi ro như Việt Nam.

1.1.4.3. Hoạt động sử dụng vốn.

a) Hoạt động cho vay

– Cho vay khách hàng

Sự thay đổi môi trường kinh doanh trong nước trước khi bước vào hội trong nước trước khi bước vào hội nhập WTO chính thức đã kéo theo nhu cầu về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế gồm cả cá nhân và doanh nghiệp. Habubank đã không ngừng mở rộng và phát triển các dịch vụ cả về chiều sâu, trong đó dịch vụ cho vay khách hàng- là dịch vụ tạo ra nguồn thu chủ yếu cho NH.

b) Hoạt động đầu tư

– Đầu tư vào thị trường Liên NH và thị trường mở

Năm 2007, đánh dấu sự tăng trưởng mạnh mẽ của Habubank trên thị trường liên NH. Bên cạnh việc đăng ký giao dịch trên thị trưòng mở. Habubank đã thiết lập thêm nhiều mối quan hệ với các NH trên các địa bàn mới như: Cần Thơ, Long An, Thanh Hóa…và đẩy mạnh mối quan hệ với nhiều NH mới trên địa bàn thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Doanh số giao dịch trên thị trường liên NH tăng 2,8 lần so với năm 2006, đạt 400000 tỷ đồng, tương đương 1515 tỷ đồng/ngày. Ngoài ra, Habubank cũng tăng cường hoạt động đầu tư và kinh doanh giấy tờ có giá nhằm đa dạng hóa danh mục đầu tư. ( Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng )

1.1.4.4..Về hoạt động bảo lãnh.

Năm 2004 NH đạt lợi nhuận từ bảo lãnh là 2,8 tỷ VNĐ, tăng 76% so với 2003, vượt 35% so với kế hoạch được giao. Năm 2005 thu nhập từ hoạt động bảo lãnh của NH đạt 6,98 tỷ VNĐ, tăng 154% so với năm 2004. Tổng doanh số bảo lãnh năm 2006 đạt 966,5 tỷ đồng, tăng 72,28% (tương đương 405,5 tỷ) so với năm 2005. Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh năm 2006 đạt 11,8 tỷ VND, tăng 69% so với năm 2005.Năm 2007 tông doanh số bảo lãnh phát hành của HABUBANK đạt 2499 tỷ đồng tăng 158,56% so với năm 2006.Thu nhập từ hoạt động bảo lãnh đạt 17,2 tỷ đồng,tăng 45,76% so với năm 2006.

1.1.4.5 Về hoạt động thanh toán quốc tế .

Doanh số hoạt động năm 2004 của mảng kinh doanh này tăng trưởng rất tốt nhờ tuân thủ chính sách đóng gói sản phẩm dịch vụ để bán chéo một cách hiệu quả, tổng cộng tăng 37% so với năm 2003 và vượt kế hoạch được giao, đạt 159 triêu USD.Năm 2005 giá trị giao dịch thanh toán qua hệ thống của Habubank đạt 151 triệu USD. Năm 2006 là năm đánh dấu sự phát triển vượt bậc về cả chất và lượng trong hoạt động thanh toán quốc tế của Habubank. Thực hiện quyết tâm đẩy mạnh dịch vụ Thanh toán của Hội đồng quản trị, toàn NH đã đạt được những kết quả hết sức khả quan: hoàn thành vượt mức kế hoạch doanh số TTQT và thu phí dịch vụ thanh toán được Hội đồng quản trị đề ra, đồng thời nâng cao chất lượng hiệu quả của hoạt động. Doanh số TTQT năm 2006 cũng là năm Habubank đạt được giải thưởng về Chất lượng thanh toán quốc tế xuất sắc do Citigroup trao tặng tháng 4/2006 dành cho NH có tỷ lệ điện tự động từ 98% trở lên. Tăng cường quan hệ với các NH đại lý, tăng và sử dụng có hiệu quả hạn mức L/C xác nhận tại các NH nước ngoài như Citibank, SCB, SMBC, ANZ, BNP, Commonwealth, UOB, Credit Suisse, ING, RZB, Scotia Bank, BHF, Fortis Bank…

1.1.4.6 Về  dịch vụ Ngân hàng tự động.

Sau khi hoàn thành việc xây dựng hệ thống phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ của NH, ngoài việc đẩy mạnh hoạt động phát hành thẻ và mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ, 2005 là năm Habubank tập trung hoàn thiện hệ thống, nâng cao chất lượng dịch vụ, cụ thể:

  • + Rà soát và kiểm tra các giao dịch thẻ, thực hiện các biện pháp kiểm soát an toàn các giao dịch trên thẻ.
  • + Xây dựng hệ thống hỗ trợ khách hàng sử dụng thẻ 24/24 h
  • + Mở rộng hệ thống chấp nhận thẻ để tạo tiện ích cho chủ thẻ
  • + Triển khai dịch vụ
  • + Xây dựng hệ thống cộng điểm tặng quà cho các khách hàng trung thành và sử dụng nhiều dịch vụ của NH. Làm việc với các đại lý để giảm giá cho các chủ thể khi thanh toán tiền mua hàng hóa và dịch vụ thẻ của NH.
  • + Phát hành loại thẻ Habubank Quickcard (phát hành nhanh) cho các chủ thẻ theo đó khách hàng có htể nhận thẻ ngay sau khi đăng ký mà không cần phải quay lại NH lần nữa.

Trong năm 2007, Habubank sẽ triển khai dự án mua hệ thống switch mới cho NH và hoàn thành các công tác chuẩn bị để có thể phát hành và chấp nhận thẻ quốc tế. Mở rộng các tiện ích kết nối giữa các NH thành viên VNBC, triển khai dịch vụ thẩu chi cho thẻ ghi nợ nội địa đã phát hành và nghiên cứu khả năng phát hành thẻ tín dụng trong nước và quốc tế.

1.1.4.6 Về  dịch vụ Ngân hàng tự động.

Sau khi hoàn thành việc xây dựng hệ thống phát hành và chấp nhận thanh toán thẻ của NH, ngoài việc đẩy mạnh hoạt động phát hành thẻ và mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ, 2005 là năm Habubank tập trung hoàn thiện hệ thống, nâng cao chất lượng dịch vụ, cụ thể:

  • + Rà soát và kiểm tra các giao dịch thẻ, thực hiện các biện pháp kiểm soát an toàn các giao dịch trên thẻ.
  • + Xây dựng hệ thống hỗ trợ khách hàng sử dụng thẻ 24/24 h
  • + Mở rộng hệ thống chấp nhận thẻ để tạo tiện ích cho chủ thẻ
  • + Triển khai dịch vụ
  • + Xây dựng hệ thống cộng điểm tặng quà cho các khách hàng trung thành và sử dụng nhiều dịch vụ của NH. Làm việc với các đại lý để giảm giá cho các chủ thể khi thanh toán tiền mua hàng hóa và dịch vụ thẻ của NH.
  • + Phát hành loại thẻ Habubank Quickcard (phát hành nhanh) cho các chủ thẻ theo đó khách hàng có htể nhận thẻ ngay sau khi đăng ký mà không cần phải quay lại NH lần nữa.

Trong năm 2007, Habubank sẽ triển khai dự án mua hệ thống switch mới cho NH và hoàn thành các công tác chuẩn bị để có thể phát hành và chấp nhận thẻ quốc tế. Mở rộng các tiện ích kết nối giữa các NH thành viên VNBC, triển khai dịch vụ thẩu chi cho thẻ ghi nợ nội địa đã phát hành và nghiên cứu khả năng phát hành thẻ tín dụng trong nước và quốc tế.

DOWNLOAD

Lời kết: Trên đây Thuctaptotnghiep đã chọn lọc cho các bạn Cơ sở lý luận nâng cao tín dụng trung – dài hạn tại ngân hàng từ những bài đạt điểm cao, được đánh giá tốt trong quá trình làm bài. Hy vọng với bài viết này có thể giúp cho các bạn có thêm tài liệu tham khảo để hoàn thành thật tốt bài luận của mình. Ngoài ra, trong quá trình làm bài các bạn gặp khó khăn trong vấn đề thiếu tài liệu hoặc không có thời gian viết bài luận cần thuê người viết, các bạn liên hệ qua zalo: 0934.536.149 để được hỗ trợ làm tốt bài luận của mình nhé.

Chúc các bạn hoàn thành thật tốt bài báo cáo thực tập của mình!

0 0 đánh giá
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Phản hồi nội tuyến
Xem tất cả bình luận
Contact Me on Zalo