Có thể các bạn chưa biết về Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại, cho nên bài viết này Thuctap sẽ chia sẻ với các bạn. Với mong muốn các bạn hiểu rõ hơn về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại, nếu bạn đang học chuyên ngành luật thì bạn càng nên tham khảo bài viết này sẽ không tốn nhiều thời gian của bạn đâu. Tham khảo và tải ngay dưới cuối bài.
Nếu các bạn đang cần người làm bài hộ, cần thuê người viết bài thì liên hệ với Thuctap qua zalo ngay nhé!
Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại
Khái niệm hoạt động nhượng quyền thương mại
Dưới góc độ kinh tế, nhượng quyền thương mại là phương thức kinh doanh, theo đó bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền kinh doanh sản phẩm, dịch vụ của mình trong một thời gian, dưới nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh, kế hoạch kinh doanh của bên nhượng quyền. Bên nhận quyền là bên sử dụng toàn bộ các yếu tố được bên nhượng quyền chuyển giao để tiến hành kinh doanh sản phẩm, dịch vụ theo phương thức của bên nhượng quyền. Trong hoạt động này, bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn duy trì mối quan hệ hợp tác chặt chẽ trong suốt quá trình có hiệu lực của hợp đồng. Việc hợp tác trong hệ thống được thiết lập nhằm mục đích hướng người tiêu dùng nhận biết sản phẩm, dịch vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền như là một phần của hệ thống mà không giống như người bán lẻ độc lập. Bằng cách này, bên nhượng quyền có thể mở rộng hệ thống phân phối sản phẩm, sự phát triển thương hiệu của mình thông qua chủ thể đầu tư khác. Về phía bên nhận quyền, thông qua việc kinh doanh dưới hình thức nhượng quyền thương mại sẽ hạn chế được rủi ro bởi có sự trợ giúp kỹ thuật và trợ giúp về cách thức quản lý của bên nhượng quyền. ( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )
Xem thêm: DỊCH VỤ VIẾT THUÊ BÁO CÁO THỰC TẬP
Đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại
Một là, hoạt động nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại được thiết lập giữa các chủ thể kinh doanh chuyên nghiệp (thương nhân)
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, một trong những điều kiện tối thiểu để các bên có thể tham gia quan hệ nhượng quyền đó là phải có tư cách thương nhân.
Hai là, đối tượng mà các bên hướng tới trong quan hệ nhượng quyền chính là “quyền thương mại”
Quyền thương mại được hiểu là một, một số hoặc toàn bộ các quyền sau đây: Quyền được bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến hành công việc kinh doanh cung cấp hàng hóa hoặc dịch vụ theo một hệ thống do bên nhượng quyền quy định và được gắn với nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền; (ii) Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền sơ cấp quyền thương mại chung; Quyền được bên nhượng quyền thứ cấp cấp lại cho bên nhận quyền thứ cấp theo hợp đồng nhượng quyền thương mại chung và Quyền được bên nhượng quyền cấp cho bên nhận quyền quyền thương mại theo hợp đồng phát triển quyền thương mại
Ba là, quan hệ nhượng quyền hướng tới thiết lập và ổn định trạng thái đồng bộ của hệ thống nhượng quyền trong suốt quá trình kinh doanh
Xuất phát từ việc chuyển giao cách thức kinh doanh và cùng sử dụng các dấu hiệu nhận biết thương nhân, nhượng quyền thương mại đã làm cho khách hàng nhận biết theo hướng toàn bộ các cơ sở trong hệ thống nhượng quyền như cùng một chủ sở hữu duy nhất, mặc dù về bản chất họ là các thương nhân độc lập nhau cả về mặt pháp lý và tài chính. Với dấu hiệu nhận biết như trên, nếu một bên nhận quyền cung cấp sản phẩm không đảm bảo chất lượng, người tiêu dùng sẽ mất niềm tin vào toàn bộ hệ thống nhượng quyền. Mặc dù sự đồng bộ trong quan hệ nhượng quyền chỉ là sự đồng bộ tương đối, không phải là sự đồng bộ một cách tuyệt đối, mức độ đồng bộ sẽ phụ thuộc vào chính sách của mỗi hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, dù mức độ đồng bộ như thế nào thì với sự nhận biết của khách hàng như trên, việc thiết lập và vận hành hệ thống nhượng quyền một cách đồng bộ là một trong những yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững của hệ thống nhượng quyền. Để đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền, bên nhượng quyền thường có những hoạt động nhằm thường xuyên trợ giúp, hỗ trợ cho bên nhận quyền trong suốt quá trình kinh doanh như trợ giúp về mặt kỹ thuật, đào tạo, huấn luyện kỹ năng kinh doanh cho bên nhận quyền.( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )
Bốn là, nhượng quyền thương mại là hoạt động thường chứa đựng các yếu tố dẫn đến hành vi hạn chế cạnh tranh
Không thể phủ nhận được thực tế là các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn hướng tới lợi nhuận thông qua hoạt động cạnh tranh. Chính vì vậy, trong bất kỳ hoạt động thương mại nào cũng luôn tiềm ẩn xu thế này và hoạt động nhượng quyền thương mại cũng không phải là ngoại lệ. Điều này được thể hiện ở chỗ, các bên trong hệ thống nhượng quyền là các chủ thể độc lập nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, trong khi họ lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm theo một phương thức như nhau, dẫn tới họ cùng tiếp cận chung một đối tượng khách hàng. Như một quy luật, để thu hút khách hàng về phía mình, các bên trong hệ thống nhượng quyền sẽ tìm mọi cách cạnh tranh với nhau trên mọi phương diện (như: giá cả, chất lượng, phương thức cung ứng dịch vụ, chế độ chăm sóc khách hàng…), khi đó tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền thương mại có khả năng bị phá vỡ. Chính vì vậy, nếu giữa các bên không có ràng buộc nhằm cấm hoặc hạn chế cạnh tranh trong hệ thống thì đương nhiên hành vi cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền sẽ tất yếu phát sinh và tính đồng bộ của hệ thống nhượng quyền theo đó cũng không giữ vững được. Do nhận thức được khả năng và nhu cầu cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền là tất yếu, khách quan nên khi thiết lập quan hệ nhượng quyền, các bên thường có những hành vi nhằm hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống. Để viện dẫn cho tính hợp lý của các hành vi hạn chế cạnh tranh này, các bên thường vin vào lý do nhằm đảm bảo tính đồng bộ trong toàn bộ hệ thống nhượng quyền để lẩn tránh sự kiểm soát của pháp luật cạnh tranh. Với sự tồn tại của cạnh tranh và hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền diễn ra một cách phổ biến và khách quan như trên, đặt ra nhu cầu điều tiết hành vi cạnh tranh của pháp luật nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng trong quan hệ nhượng quyền thương mại.( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )

Hành vi hạn chế cạnh tranh và yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại
Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Cạnh tranh là hiện tượng tất yếu và cần thiết trong nền kinh tế, thiếu vắng cạnh tranh, nền kinh tế sẽ khó vận hành, phát triển. Với bản chất như trên, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều có những quy định nhằm bảo vệ cạnh tranh, đảm bảo để hành vi cạnh tranh tồn tại theo đúng quy luật thị trường.( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )
Theo pháp luật cạnh tranh của Việt Nam tại Khoản 3, Điều 3, Luật Cạnh tranh 2014, hành vi hạn chế cạnh tranh là “hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế” . Dưới góc độ kinh tế, cạnh tranh là yếu tố tất yếu trong nền kinh tế thị trường, thúc đẩy các thương nhân phải tìm mọi cách giành giật thị trường thông qua việc nỗ lực cung cấp các sản phẩm tốt với giá cả phải chăng, với các nỗ lực không ngừng như vậy, nhiều sản phẩm mới ra đời với chi phí thấp và giá cả có lợi cho người tiêu dùng, phúc lợi xã hội vì vậy cũng tăng cao và nền kinh tế nhờ vậy sẽ có động lực để phát triển. Có thể nói, ý nghĩa ngắn gọn của cạnh tranh là “động lực phát triển cho nền kinh tế”. Chính vì vậy, về lý thuyết, một nền kinh tế không có cạnh tranh sẽ là nền kinh tế “chết”, không phát triển. Tuy nhiên, trên thực tế, sự tồn tại của cạnh tranh là khách quan, chỉ có điều ở các giai đoạn khác nhau thì mức độ cạnh tranh và mức độ ảnh hưởng của cạnh tranh tới nền kinh tế là khác nhau. Nhận thức rõ vai trò của cạnh tranh như vậy, Luật Cạnh tranh các nước đều tăng cường bảo vệ cạnh tranh thông qua việc kiểm soát các hành vi có khả năng làm giảm, sai lệch hoặc triệt tiêu năng lực cạnh tranh của các thương nhân (hành vi hạn chế cạnh tranh). Các hành vi này được chia thành hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh/vị trí độc quyền và tập trung kinh tế. Bên cạnh đó, những hành vi cạnh tranh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng (hành vi cạnh tranh không lành mạnh) cũng được pháp luật cạnh tranh Việt Nam ghi nhận như là những yếu tố xâm phạm đến môi trường cạnh tranh cần kiểm soát.
Các yếu tố làm phát sinh hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại
Nhu cầu tối đa hóa lợi nhuận và mở rộng thị trường của các thương nhân trong hệ thống nhượng quyền
Dưới khía cạnh cạnh tranh, có thể nói, bất kỳ một thương nhân nào khi gia nhập thị trường đều mong muốn tạo lập và nâng cao năng lực thị thường, từ đó “lôi kéo” được khách hàng về phía mình. Mong muốn này về bản chất là chính đáng, bởi lẽ khi thực hiện bất cứ hoạt động kinh doanh nào, các thương nhân đều muốn thu về thật nhiều lợi nhuận, vì vậy, một khi “miếng bánh thị phần” rộng lớn thì lợi nhuận của họ mới được tăng cao. Để mở rộng thị trường, hai yếu tố cơ bản sẽ được sử dụng chủ yếu để chi phối sự lựa chọn của khách hàng, đó là yếu tố về giá và chất lượng sản phẩm. Theo đó, nếu một sản phẩm có chất lượng tốt với giá cả phải chăng sẽ dễ dàng được khách hàng chấp nhận. Ở cấp độ đơn giản, việc tạo dựng năng lực thị trường có thể xuất phát từ việc tác động vào từng yếu tố (chất lượng tăng hoặc giá giảm), ở cấp độ cao hơn, các thương nhân có thể vừa tăng chất lượng (bằng cách tạo ra sự khác biệt, tạo ra nhiều tính năng, công dụng của sản phẩm…) vừa giảm giá thành sản phẩm để tăng tính hấp dẫn đối với khách hàng.
Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, các bên nhượng quyền và nhận quyền đều là những thương nhân độc lập, lại cùng kinh doanh một loại sản phẩm theo cùng một phương thức như nhau, chính vì vậy khi mà sản phẩm là giống nhau, nhu cầu chiếm lĩnh thị trường về phía mình lớn thì khả năng thực hiện các hành vi cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh, thu hút khách hàng về phía mình là điều luôn luôn tồn tại trong ý thức của các bên trong hệ thống nhượng quyền. Tuy nhiên, do kinh doanh cùng một sản phẩm theo một phương thức như nhau, việc sáng tạo trong quá trình kinh doanh theo phương thức nhượng quyền là điều không thể tồn tại trong hoạt động nhượng quyền, chính vì vậy, các hành vi hạn chế cạnh tranh dưới dạng phân chia thị trường tiêu thụ thường xuất hiện như một nhu cầu tất yếu trong hoạt động nhượng quyền.( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )
Xem thêm: BÀI MẪU BÁO CÁO THỰC TẬP CƠ SỞ LÝ LUẬN
Chính vì vậy, có thể khẳng định, hành vi cạnh tranh là hành vi tồn tại tất yếu, khách quan trong bất kỳ một quan hệ thương mại nào, trong đó, nhượng quyền thương mại không phải là một ngoại lệ.
Yêu cầu đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại tương đối đặc thù so với các hoạt động thương mại thông thường khác. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ mặc dù các bên là các thương nhân độc lập với nhau về mặt tư cách pháp lý và tài chính, sở hữu các cơ sở kinh doanh khác nhau nhưng lại kinh doanh cùng một sản phẩm như nhau, với việc cùng sử dụng tất cả các dấu hiệu nhận biết thương nhân (tên thương mại, nhãn hiệu, bí quyết kỹ thuật, khẩu hiệu kinh doanh…). Vì lẽ này mà trong con mắt khách hàng, tất cả các cơ sở nhượng quyền đều có cùng chung một chủ sở hữu với chất lượng, chính sách bán hàng như nhau. Do vậy, nếu một bên trong hệ thống nhượng quyền cung cấp sản phẩm kém chất lượng (so với yêu cầu của bên nhượng quyền) sẽ làm cho khách hàng đánh giá sản phẩm của toàn bộ hệ thống nhượng quyền đó không tốt, làm ảnh hưởng đến quyết định tiếp tục sử dụng sản phẩm trong tương lai của khách hàng.
Bản chất kinh tế của mối quan hệ
Mối quan hệ ở đây được hiểu là mối quan hệ giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền. Trong hoạt động nhượng quyền thương mại, sự xuất hiện của cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống (giữa bên nhượng quyền với bên nhận quyền, giữa các bên nhận quyền với nhau) là tất yếu, khách quan. Mặc dù, nhìn bề ngoài ở cấp độ hệ thống nhượng quyền, khi mà các bên trong quan hệ nhượng quyền thương mại cùng kinh doanh theo một phương thức duy nhất, sản phẩm, chất lượng đồng bộ nhau, thậm chí giá cả tương đồng nhau thì họ không phải là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên, ở khía cạnh bản chất, trong nội bộ hệ thống, họ là các thương nhân độc lập về mặt tài chính và pháp lý, các bên trong hệ thống nhượng quyền đều mong muốn tăng cường lợi nhuận, đặc biệt khi kinh doanh cùng một sản phẩm, họ lại càng có cùng đối tượng khách hàng như nhau, nếu khách hàng sử dụng sản phẩm của một bên thì các bên còn lại trong hệ thống sẽ không còn cơ hội cung ứng được sản phẩm cho khách hàng đó nữa. Chính vì vậy, ở khía cạnh nhất định, họ đều là đối thủ cạnh tranh của nhau.( Cơ sở lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh nhượng quyền thương mại )
Xem thêm: TRỌN BỘ BÁO CÁO THỰC TẬP NHÂN SỰ
Nhận diện hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại, có hai nguyên nhân khiến cho hành vi hạn chế cạnh tranh giữa các bên trong hệ thống nhượng quyền thương mại xuất hiện:
Một là, với bản chất của thương nhân luôn hướng tới mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, các bên trong hoạt động nhượng quyền giống như các chủ thể kinh doanh thông thường khác thường thực hiện những hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó, thay vì thực hiện những hành vi cạnh tranh nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, các đối thủ cạnh tranh lại phối hợp với nhau để đẩy thị trường vào trạng thái không cạnh tranh với nhau nhằm bóc lột khách hàng và triệt tiêu động lực phát triển cho nền kinh tế bằng cách thỏa thuận về giá sản phẩm, phân chia thị trường tiêu thụ, hạn chế sản xuất kinh doanh…. Trong trường hợp này, hành vi hạn chế cạnh tranh của các bên trong hệ thống nhượng quyền chỉ có một mục tiêu duY nhất là nhằm tối đa hóa lợi nhuận mà không có lý do chính đáng, đẩy bất lợi về phía người tiêu dùng.
Hai là, với bản chất của phương thức kinh doanh luôn hướng tới và đảm bảo tính đồng bộ trong hệ thống nhượng quyền. Nếu các chủ thể kinh doanh trong hệ thống thực hiện hành vi cạnh tranh riêng lẻ theo cách truyền thống (như thực hiện các hành vi nhằm tác động vào giá và chất lượng sản phẩm để thu hút người tiêu dùng) thì tính đồng bộ trong kinh doanh theo phương thức nhượng quyền trong toàn bộ hệ thống có khả năng không được đảm bảo.
Tải và tham khảo nhiều bài liên quan về Luật hơn tại đây. Chúc các bạn hoàn thành tốt bài làm của mình.
Tôi tên là Đặng Thị Thu Phương, năm nay 29 tuổi, tốt nghiệp thạc sĩ trường Đại học Kinh Tế. Tôi hiện nay Chuyên phụ trách nội dung trên website: luanvanpanda.com. Luận Văn Panda được thành lập từ năm 2009, nhóm Luận văn Panda bao gồm các thành viên tốt nghiệp đại học và thạc sĩ loại giỏi từ các trường Đại học trên cả nước, với niềm đam mê viết lách, soạn thảo văn bản, phân tích kinh tế, chúng tôi nhận hỗ trợ sinh viên Đại Học, và học viên cao học hoàn thành tốt bài luận văn đại học, và Luận văn thạc sĩ, https://thuctaptotnghiep.com/ – Hoặc ZALO: 0932.091.562