Dưới đây Thuctaptotnghiep chia sẻ cho các bạn về Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng chọn lọc từ các bài điểm cao, được đánh giá tốt trong quá trình làm bài báo cáo thực tập kế toán. Các bạn tham khảo các mẫu dưới đây để hoàn thành thật tốt bài làm của mình nha.
Lưu ý: Trong quá trình làm bài báo cáo thực tập tốt nghiệp, nếu các bạn gặp khó khăn về đề tài hay chưa có công ty thực tập các bạn có thể liên hệ với dịch vụ làm báo cáo thực tập trọn gói qua:
SĐT / Zalo: https://zalo.me/0934536149
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH THANH TOÁN THẺ
I Giới thiệu về ngân hàng Đông Á
Ngân hàng Đông Á (DongA Bank – EAB) được thành lập vào ngày 01/07/1992, với vốn điều lệ ban đầu là 20 tỷ đồng, hoạt động theo phương châm “Bình dân hoá dịch vụ ngân hàng – Đại chúng hoá công nghệ ngân hàng”, hướng đến một ngân hàng đa năng – một tập đoàn dịch vụ tài chính vững mạnh.
- Hoạt động hiện nay:
Bên cạnh mạng lưới bao phủ rộng khắp gồm Hội sở, 1 Sở giao dịch, hơn 200 chi nhánh và PGD, DongA Bank còn mở rộng các kênh giao dịch ngân hàng tự động với hệ thống hơn 1.300 máy ATM, 800 máy POS, cùng nhiều tiện ích của ngân hàng Điện tử với các dịch vụ Internet banking, Mobile banking, phone banking, SMS banking đem đến sự thuận tiện, nhanh chóng và hiệu quả cho Khách hàng. Với phương thức giao dịch đa dạng, DongA Bank đem dịch vụ ngân hàng tới gần Khách hàng hơn, sẵn sàng phục vụ nhu cầu giao dịch mọi lúc, mọi nơi.
Hiện nay, ngân hàng có 4 công ty thành viên :
- Công ty Kiều hối Đông Á (DonggA Money Tranfer)
- Công ty Chứng khoán Đông Á (DongA Securities)
- Công ty Quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á (DongA Capital)
- Công ty Thẻ thông minh Vi Na (V.N.B.C.)
Cho đến nay, DongA bank đã giành được nhiều giải thưởng trong và ngoài nước như:
- Thương hiệu nổi tiếng Quốc gia & Doanh nhân xuất sắc Đất Việt 2010
- Thương hiệu Việt yêu thích nhất 2010
- Doanh nghiệp Sài Gòn tiêu biểu 2010
- Giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2003, 2005, 2007, 2008, 2010… ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- Chứng nhận xuất sắc về Chất lượng vượt trội của hoạt động Thanh toán quốc tế do Standard Chartered Bank, Citibank, American Express Bank, Wachovia Bank và Bank of New York trao tặng…
Hiện nay, sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô cùng với hàng loạt chính sách mới từ Ngân hàng Nhà nước đã gây rất nhiều khó khăn cho hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên tính đến thời điểm cuối năm 2010, DongA Bank vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
- Tổng tài sản: Đạt 55.873 tỷ đồng, tăng 31,4% so với đầu năm .
- Vốn điều lệ: đạt 4.500 tỷ đồng, tăng 32,35% so với đầu năm
- Tổng nguồn vốn huy động: 47.756 tỷ đồng, tăng 30% so với đầu năm.
- Hoạt động tín dụng: tổng dư nợ cho vay đạt 38.436 tỷ đồng, tăng 10,8% so với đầu năm
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ: tổng doanh số mua bán các loại ngoại tệ quy USD đạt 16.712 triệu USD, tăng 27% so với năm 2009
- Kết quả kinh doanh: lợi nhuận trước thuế toàn ngân hàng đạt 858 tỷ đồng, tăng 8,86% so với năm 2009 và đạt 78% kế hoạch
- Chặng đường hình thành và phát triển thẻ ngân hàng DongA bank:
1992:DongA Bank được thành lập với 56 cán bộ, nhân viên làm việc tại trụ sở đầu tiên tại Quận Phú Nhuận, TP.HCM. Với vốn điều lệ 20 tỷ đồng, DongA Bank là ngân hàng đầu tiên thực hiện tín dụng trả góp chợ dành cho đối tượng là tiểu thương và các hộ mua bán tại các chợ.
2002: Sau 10 năm hoạt động, vốn điều lệ của DongA Bank tăng lên gấp 10 lần – với tổng vốn là 200 tỷ đồng. Năm này, DongA Bank thành lập Trung tâm thẻ Ngân hàng Đông Á, phát hành thẻ Đông Á.
2004: Vốn điều lệ DongA Bank là 350 tỷ đồng. DongA Bank chính thức triển khai hệ thống ATM và dịch vụ thanh toán tiền điện tự động qua ATM.
2005: DongA Bank thành lập hệ thống Vietnam Bankcard (VNBC) kết nối hệ thống thẻ giữa các ngân hàng, hợp tác thành công với Tập đoàn China Union Pa
II: Thực trạng phát hành thẻ thanh toán tại ngân hàng Đông Á
DongA Bank là một trong các ngân hàng Việt Nam đi đầu trong việc giới thiệu các sản phẩm tích hợp nhiều tiện ích tại Việt Nam. DongA Bank chiếm thị phần cao về các loại thẻ nội địa. Trong đó Thẻ Đa năng Đông Á đã trở thành loại thẻ số 1 tại thị trường Việt Nam cung cấp nhiều tiện ích nhất cho người sử dụng, từ các tiện ích cơ bản trong giao dịch đến các tiện ích phục vụ cuộc sống hiện đại qua các kênh giao dịch tự động và ngân hàng điện tử. Ngoài ra, DongA Bank còn tích hợp các tính năng ưu việt của Thẻ Đa năng để phát triển thêm nhiều loại thẻ dành cho các đối tượng khác nhau như: Thẻ CK Card, Thẻ Bác sỹ…
Các loại thẻ ưu việt này đã thực sự mang đến tiện ích cao nhất cho mọi đối tượng người dân Việt Nam sử dụng các dịch vụ ngân hàng, đồng thời góp phần bổ sung và làm hoàn hảo hơn các dòng sản phẩm thẻ tại thị trường Việt Nam.
III. Các sản phẩm thẻ hiện có của DongA Bank:
1.1 Tính năng Tiện ích Thẻ đa năng Đông Á
- Rút tiền mặt trên 1600 Máy ATM (hệ thống VNBC) và hệ thống máy ATM có liên kết của các ngân hàng khác.
- Gửi tiền qua ATM 24/24.
- Chuyển khoản qua ATM/ POS/ Ngân hàng Đông Á điện tử ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- Thanh toán mua hàng trực tuyến tại các Siêu thị online: www.hlink.vn; www.buy365.vn; www.vietnamairlines.com.vn; www.nguyenkim.com.vn; www.linhperfume.com, …
- Hưởng lãi không kỳ hạn trên số tiền trong tài khoản.
- Thanh toán tiền mua hàng tại các hệ thống siêu thị, cửa hàng: Co-op Mart, MaxiMark, Metro, PNJ, Kinh Đô…
- Thanh toán tự động tiền điện, nước, điện thoại, internet, bảo hiểm, taxi, trả nợ vay.
- Xem và in sao kê trên ATM.
- Mua thẻ cào (điện thoại, internet, thẻ trả trước, …) qua ATM hoặc DongA eBanking.
- Nhận lương qua thẻ.
- Giao dịch qua kênh “DongA eBanking”: chuyển khoản, thanh toán qua mạng, mua thẻ cào, nhận thông báo khi có biến động số dư, kiểm tra số dư, liệt kê giao dịch …
Thẻ nhà giáo
2.1 Tính năng và tiện ích
Thẻ nhà giáo mang đầy đủ tính năng của Thẻ Đa năng Đông Á. Các tiện ích của thẻ nhà giáo được sử dụng toàn bộ các tiện ích của thẻ đa năng Đông Á và các chương trình khuyến mãi đi kèm (Tùy từng thời điểm mà Đông Á bank thông báo). Ngoài ra còn có thêm các lợi ích khác, từ các góp ý của giáo viên gửi về DongA Bank thông qua tổng đài 1900545464 hoặc góp ý trực tiếp tại các điểm giao dịch của DongA Bank.
Chính sách Marketing
Với đối tượng là giáo viên các chính sách được áp dụng như:
- Miễn phí phát hành thẻ
- Miễn phí thường niên một năm với tất cả các giáo viên riêng đơn vị có chi lương qua thẻ
Thẻ liên kết sinh viên
3.1 Tính năng và tiện ích
Thẻ liên kết sing viên mang đầy đủ các tính năng của thẻ đa năng thì thẻ còn có một số tính năng đặc biệt. Ứng dụng công nghệ thẻ từ vào quản lý sinh viên như: Quản lý ra vào thư viện, ra vào phòng máy vi tính, thanh toán học phí, học bổng của sinh viên qua thẻ… Một số các ứng dụng khác phù hợp với tính năng ưu việt nhất của công nghệ Thẻ từ hiện nay.
- Chính sách Marketing
Chính sách marketing được thể hiện rõ khi DongA bank liên kết với hơn 20 trường đại học cao, cao đẳng như: ĐH Bách khoa TP.HCM, Khoa học tự nhiên, kinh tế TP.HCM, kinh tế Hà Nội, kinh tế Đà Nẵng…. để nhằm tới đối tượng sinh viên- Khách hàng tiềm năng tương lai. Thẻ không những đóng vai trò là thẻ ATM mà còn là thẻ sinh viên, thẻ thư viện giúp sinh viên có thể dễ dàng thanh toán tiền học phí qua thẻ mà không phải đến trường, nhận học bổng hay thực hiện các thao tác rút, gửi tiền… Nhờ đa tiện ích như vậy mà DongA bank có thể quảng bá hình ảnh của minh rộng rãi đến những khách hàng tiềm năng tương lai- sinh viên.
Thẻ Đa năng Richland Hill
- Tính năng và tiện ích
Thẻ Richland Hill được thiết kế theo phong cách New York là kết quả hợp tác giữa DongA bank và các nhà đầu tư.
- Thẻ mang đầy đủ tất cả các tính năng của thẻ đa năng.
- Ngoài ra thẻ còn có thêm các tính năng đặc biệt như: được cập nhật thông tin về dự án Richland Hill và thông tin các dự án khác của công ty vốn Thái Thịnh. Hơn nữa người sử dụng thẻ này có cơ hội đặt chỗ và rút thăm mua căn hộ trong phức hợp Richland Hill.
- Chính sách Marketing
Một số chính sách marketing với thẻ Richland Hill:
- Miễn phí phát hành thẻ lần đầu tiên ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- Phí phát Thẻ khi hết hạn sử dụng: Miễn phí
Thẻ Đa năng CK
- Đối với các Chủ thẻ Bác sỹ khác
- Chi lương tại DongA Bank: tối đa 05 lần thu nhập hàng tháng, tối đa 100 triệu.
- Không chi lương tại DongA Bank: tối đa 3 lần thu nhập hàng tháng. Hạn mức tối đa theo bảng thâm niên công tác bên dưới.
- Được tham gia chương trình vay 24 phút với các hạn mức vay hấp dẫn
- Được hưởng các chính sách ưu đãi do báo SGTT cung cấp:
- Tư vấn thiết kế về nhà cửa miễn phí;
- Tư vấn về sức khỏe miễn phí;
- Giảm giá khi mua hàng trên siêu thị báo SGTT và giao hàng miễn phí trong nội thành TPHCM.
- Đặc biệt từ đầu tháng 10/2009 chủ thẻ Shopping Card được Giáo sư – bác sỹ Nguyễn Chấn Hùng (nguyên GĐ bệnh viện Ung bướu TP.HCM) tư vấn và khám bệnh miễn phí tại phòng khám Báo SGTT.
- Được hưởng các quyền lợi của Cộng đồng giảm giá do báo SGTT và DongA Bank cùng hợp tác xây dựng và triển khai với các đối tác của hai bên.
Chính sách Marketing
Phát hành lần đầu tiên: Miễn phí
Phí phát thẻ khi hư hỏng sau 3 năm: Miễn phí
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH THANH TOÁN THẺ NGÂN HÀNG TMCP ĐÔNG Á – CHI NHÁNH HÀ NỘI TRONG GIAI ĐOẠN 2005 – 2008
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Chi nhánh
Ngân hàng TMCP Đông Á được thành lập vào ngày 01/07/1992, là ngân hàng thành lập mới đầu tiên theo pháp lệnh ngân hàng 1992. Vốn điều lệ của ngân hàng ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ đồng (trong đó có 80% vốn của các pháp nhân) với 03 phòng nghiệp vụ là tín dụng, ngân quỹ và kinh doanh.
Đến 31/12/2008, vốn điều lệ của Ngân hàng TMCP Đông Á đã tăng lên 2880 tỷ đồng, tổng tài sản đạt 27 424 tỷ đồng. Mạng lưới hoạt động trải rộng trên cả nước với đầy đủ các sản phẩm dịch vụ của một ngân hàng hiện đại. Hiệu quả kinh doanh không ngừng tăng trưởng từ khi mới thành lập cho tới nay.
Để thực hiện mục tiêu trở thành một trong những ngân hàng bán lẻ hàng đầu tại Việt Nam, Ngân hàng TMCP Đông Á đã mở rộng mạng lưới chi nhánh và phòng giao dịch trên khắp cả nước. Đến cuối năm 2008, ngân hàng đã có 107 điểm giao dịch trên phạm vi 40 tỉnh/thành phố, vượt kế hoạch 100 chi nhánh và phòng giao dịch đã đề ra. Đặc biệt, Ngân hàng đã có mặt đủ trên địa bàn 13 tỉnh miền Tây Nam Bộ.
Ngân hàng TMCP Đông Á – chi nhánh Hà Nội chính thức đi vào hoạt động ngày 17/9/1993. Tính cho đến thời điểm này thì chi nhánh đã triển khai hoạt động được hơn 16 năm. Hơn 16 năm là cả một quá trình chi nhánh vừa hoạt động vừa kinh doanh, vừa hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý; trong thời gian này, chi nhánh Hà Nội đã từng bước đạt được dấu ấn riêng trong phong cách phục vụ khách hàng, thu được những kết quả khả quan, làm tiền đề cho sự phát triển của chi nhánh trong thời gian tới.
Kể từ khi được thành lập cho tới nay, ngân hàng TMCP Đông Á chi nhánh Hà Nội đã không ngừng phấn đấu, tạo dựng những mối quan hệ với khách hàng trong khu vực, từng bước cải tiến và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xây dựng một nền tảng công nghệ hiện đại và nhân lực trình độ cao. Đến tháng 10/2001, do mở rộng hoạt động kinh doanh, trụ sở chi nhánh được chuyển về 11 Nguyễn Biểu – Ba Đình với điều kiện về cơ sở vật chất tốt hơn. Trong suốt hơn 16 năm vừa qua, Chi nhánh đã có những thành tích rất đáng tự hào, liên tục đạt được bằng khen của Nhà nước, của Tổng cục thuế… Bên cạnh đó, nhằm tăng cường công tác huy động và mở rộng thị phần, nâng cao thương hiệu, NHĐA chi nhánh Hà Nội đã lần lượt khai trương các chi nhánh và cho đến nay, Chi nhánh đã thành lập được các chi nhánh cấp 2 trực thuộc tại các địa bàn. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
2.1.2. Nguồn nhân lực và cơ cấu tổ chức
2.1.2.1. Nguồn nhân lực
Với phương châm bồi dưỡng và đào tạo đội ngũ nhân viên có phẩm chất đạo đức tốt và năng lực chuyên môn cao, Chi nhánh chú trọng phát triển nguồn nhân lực để đưa hoạt động của ngân hàng vào ổn định, hiệu quả. Hiện Chi nhánh có một đội ngũ nhân viên đông đảo gồm hơn 200 người, trong đó 80% có trình độ cao đẳng, đại học và trên đại học.
2.1.2.2. Cơ cấu tổ chức
Chi nhánh ngân hàng TMCP Đông Á có cơ cấu tổ chức gồm Ban giám đốc, phòng nghiệp vụ và các phòng giao dịch (PGD) trực thuộc:
- Ban giám đốc gồm:
- Một giám đốc phụ trách chung, chủ trương chỉ đạo các hoạt động tài chính tổng hợp: kiểm tra, kiểm soát, tín dụng.
- Một phó giám đốc.
- Sáu phòng nghiệp vụ bao gồm: phòng Kế toán, phòng Hành chính, phòng Thẻ, phòng Công nghệ Thông tin, phòng Ngân quỹ, phòng Tín dụng và Kinh doanh.
- Mười bảy phòng giao dịch trực thuộc: Ba Đình, Hồ Gươm, Cầu Giấy, Thanh Xuân, Kim Liên, Tây Hồ, Khâm Thiên, Nguyễn Biểu, Bạch Mai, Minh Khai, Long Biên, Hưng Yên, Hà Đông, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Phúc Yên.
2.1.3. Quá trình hình thành và phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại Ngân hàng TMCP Đông Á
Việc phát triển đa dạng hoá các hình thức dịch vụ kinh doanh sẽ tạo cho ngân hàng có điều kiện nâng cao uy tín của mình trên thị trường và khả năng sinh lời cao. Do vậy, một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ là việc cần làm và nhất thiết phải làm. Kinh doanh thẻ là một lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lời cao nhưng lại là lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới mẻ, nên đòi hỏi các ngân hàng phải có sự đầu tư chiều sâu về hạ tầng cũng như về con người. Ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ kinh doanh thẻ, nên ngay sau khi ra đời, NHĐA đã rất chú trọng phát triển nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ đồng thời xúc tiến chuẩn bị nhân sự cũng như trang thiết bị để xây dựng trung tâm thẻ ngân hàng. Đến 07/2002, Trung tâm thẻ NHĐA chính thức được thành lập.
Thời gian đầu sau khi thành lập, kênh giao dịch thanh toán chỉ là những chiếc máy POS thô sơ được cài đặt như máy ATM và do các đại lý đảm trách việc chi trả. Nhận thức được áp lực cần phải đổi mới, Ban lãnh đạo ngân hàng đã đề ra những chiến lược phát triển trong hoạt động thanh toán thẻ với chính sách phục vụ khách hàng mà trong đó chữ tin cậy và an toàn là phương châm cao nhất.
Từ tháng 9/2003, NHĐA đã hợp tác với nhiều nhà cung cấp hàng đầu để đưa vào phục vụ tốt cho gần 800.000 khách hàng trong suốt những năm qua. Tháng 01/2005, NHĐA đã đưa hệ thống VNBC vào hoạt động với ban đầu gồm bốn ngân hàng thành viên (Ngân hàng Đông Á, Sài Gòn Công thương Ngân hàng, Ngân hàng Nhà Hà Nội, Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long). Sau mười tháng đi vào hoạt động, Ngân hàng lại tiếp tục kết nối thông qua hệ thống ATM và POS với tập đoàn China Union Pay. Năm 2006, sau một thời gian dài thương lượng, NHĐA đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thẻ quốc tế Visa và chấp nhận các giao dịch thẻ Visa qua hệ thống của mình. Tính tới thời điểm cuối năm 2008, cả hệ thống có 890 máy ATM và 1100 POS.
Xem thêm: Đề cương hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng
2.2. Thực trạng hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng TMCP Đông Á – chi nhánh Hà Nội
2.2.1. Các loại thẻ ngân hàng chấp nhận thanh toán
2.2.1.1. Thẻ trong hệ thống VNCB
Năm 2005, ngân hàng TMCP Đông Á chính thức đưa hệ thống chuyển mạch thanh toán thẻ ngân hàng với thương hiệu VNBC. Hiện nay, tổ chức này có chín thành viên gồm DongABank, DaiA Bank, HabuBank, SaigonBank, CommonwealthBank (Úc), GP.Bank, PIBank (Campuchia), Ngân hàng MHB và Ngân hàng UOB (Singapore) chi nhánh TP.HCM. Như vậy, ngoài thẻ Đa năng do Đông Á phát hành, thẻ của các ngân hàng trong liên minh thẻ VNBC phát hành cũng được chấp nhận thanh toán rộng rãi tại các điểm chấp nhận thẻ của Ngân hàng Đông Á.
Năm 2006, NHĐA chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thẻ quốc tế Visa International. Với vai trò mới này, cuối năm 2007, NHĐA đã cài đặt toàn bộ máy ATM trên toàn hệ thống chấp nhận cho khách hàng sử dụng thẻ Visa rút tiền mặt (bằng VNĐ) và kiểm tra số dư tài khoản.
2.2.2. Công nghệ thanh toán
NHĐA hiện đang là một trong những ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực công nghệ thanh toán thẻ ở Việt Nam. Năm 2003, nhận thức được vai trò của công nghệ đối với hoạt động thanh toán thẻ nói riêng cũng như hoạt động quản lý và kinh doanh của ngân hàng nói chung, NHĐA đã mạnh dạn hợp tác với các nhà cung cấp hàng đầu như Ciso, Juniper, Oracle, EMC, Iflex, Vietcard, Tomcom, TI. Đặc biệt, với thỏa thuận hợp tác lâu dài và trực tiếp, tập đoàn GRG của Trung Quốc đã tích hợp thế hệ ATM đầu tiên vào thị trường Việt Nam, đưa vào những ứng dụng chuyên biệt cho NHĐA
Không những thế, trong thời gian qua, Ngân hàng cũng nghiên cứu, hợp tác để thiết kế và chế tạo thành công 02 dòng sản phẩm máy vượt trội như máy ATM TK21 và H38N với chức năng nhận tiền gửi trực tiếp và chức năng thu đổi ngoại tệ (TK21) hay nhận được đến 100 tờ tiền/lần giao dịch hoặc sử dụng nhiều loại tiền khác nhau trong cùng một lần giao dịch. Đây là những tiện ích công nghệ đầu tiên được ứng dụng vào hệ thống giao dịch thanh toán thẻ của ngân hàng tại Việt Nam. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Bên cạnh đó, từ năm 2003, NHĐA đã khởi động dự án hiện đại hoá công nghệ và chính thức đưa vào áp dụng phần mềm quản lý mới (Core-banking) trên toàn hệ thống từ tháng 6/2006. Phần mềm này do tập đoàn I-Flex cung cấp. Với việc thành công trong đầu tư công nghệ và hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng, Ngân hàng Đông Á cung cấp nhiều dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng cá nhân và doanh nghiệp. Đặc biệt, Ngân hàng Đông Á có khả năng mở rộng phục vụ trực tuyến trên toàn hệ thống chi nhánh, qua ngân hàng tự động và ngân hàng điện tử mọi lúc, mọi nơi.
Là thành viên chính thức của tập đoàn thẻ quốc tế Visa, NHĐA cũng từng bước nâng cao chất lượng đường truyền, tốc độ thanh toán, công tác bảo mật thông tin cho phù hợp với những tiêu chuẩn chung do TCTQT đề ra, đảm bảo một cách tương đối tính an toàn và nhanh chóng trong thanh toán cho khách hàng.
Với số lượng khách hàng thanh toán thẻ tăng nhanh chóng trong thời gian qua, Chi nhánh Hà Nội đã không ngừng mở rộng hệ thống ATM và POS với công nghệ thanh toán hiện đại. Tuy nhiên, do tốc độ giao dịch cao và đặc biệt tăng nhanh vào những dịp trả lương, ngày lễ tết nên đã xuất hiện tình trạng các giao dịch qua ATM không thực hiện được do lỗi đường truyền, nghẽn mạch, rút tiền nhiều lúc không lấy được biên lai, hay chưa rút được tiền đã bị khấu trừ trong tài khoản, hoặc đã rút rồi lại được cộng thêm tiền… gây ảnh hưởng tới uy tín, chất lượng sản phẩm và dịch vụ của Chi nhánh.
2.2.3. Mạng lưới thanh toán
Cùng với công nghệ, mạng lưới thanh toán cũng là một tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát triển trong hoạt động thanh toán thẻ tại ngân hàng. Cùng với sự lớn mạnh của NHĐA chi nhánh Hà Nội, mạng lưới thanh toán cũng được quan tâm đầu tư thích đáng trong cả mạng lưới ATM cũng như mạng lưới POS và đã đạt được tốc độ mở rộng đáng kể trong những năm gần đây.
2.2.6. Tần suất giao dịch
Với mạng lưới ATM và POS ngày càng mở rộng trên địa bàn Hà Nội, số lượng giao dịch qua ATM và POS đạt tần suất tương đối cao. Theo số liệu năm 2007 của NHĐA chi nhánh Hà Nội, tần suất giao dịch qua ATM đạt mức 12000 giao dịch/năm. Đây là một con số khá cao thể hiện sự phát triển trong hoạt động thanh toán của ngân hàng.
2.2.7. Lợi nhuận từ thanh toán
Doanh số thanh toán thẻ tăng, tần suất giao dịch luôn đạt mức cao cùng với mạng lưới tương đối rộng và công nghệ hiện đại là những nguyên nhân chính dẫn tới sự tăng trưởng của lợi nhuận thanh toán thẻ cho chi nhánh Hà Nội cũng như trên toàn hệ thống.
Bảng 2.4. LNTTT tại NHĐA chi nhánh Hà Nội | ||||
Đơn vị: Tỷ VNĐ | ||||
Năm | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 |
LNTTT | 1.2 | 2 | 2.4 | 4.9 |
% thay đổi theo năm | ||||
81.00% | 66.67% | 20.00% | 104.17% | |
Tổng LN
|
12.43 | 28.77 | ||
Đóng góp vào tổng LN | ||||
19.31% | 17.03% | |||
Nguồn: Phòng thẻ – NHĐA chi nhánh Hà Nội |
Nhìn vào bảng biểu, ta thấy trong 4 năm trở lại đây, lợi nhuận thanh toán thẻ đều tăng qua các năm (từ 1,2 tỷ VNĐ năm 2005 lên 4,9 tỷ VNĐ năm 2008), lợi nhuận năm 2008 tăng hơn 4 lần lần năm 2005. Lợi nhuận này đã đóng góp 104,17% vào tổng lợi nhuận của toàn chi nhánh năm 2008 và có xu hướng tăng trong những năm gần đây. Điều này chứng tỏ hoạt động thanh toán thẻ đóng một vài trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của NHĐA Hà Nội, do vậy chi nhánh cần phải nhanh chóng hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán thẻ, phát huy hơn nữa thế mạnh của mình để không ngừng gia tăng lợi nhuận.
2.3. Đánh giá sự phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại ngân hàng TMCP Đông Á
2.3.1. Những thành tựu đạt được
Thứ nhất, về trình độ công nghệ
Trong những năm vừa qua, NHĐA chi nhánh Hà Nội đã thực sự phát huy được lợi thế về nền tảng công nghệ để khẳng định vị trí là một trong những ngân hàng đứng đầu thị trường thẻ Việt Nam. Cùng việc áp dụng những công nghệ tiên tiến vào hoạt động thanh toán thẻ, với tốc độ thanh toán nhanh, độ bảo mật cao, Chi nhánh đã làm tăng tính an toàn, nhanh chóng và thuận tiện cho khách hàng khi giao dịch. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Thứ hai, về mạng lưới thanh toán
NHĐA chi nhánh Hà Nội đang liên tục mở rộng phạm vi thanh toán trên địa bàn thành phố bằng cách lắp đặt thêm nhiều máy ATM và POS với tốc độ mở rộng rất cao, và được đánh giá là một trong số những ngân hàng dẫn đầu về số lượng ATM và POS với 119 ATM và 87 POS năm 2008 (chiếm 10,3% số ATM tại Hà Nội). Kết hợp với việc tăng cường hoạt động liên minh liên kết với các ngân hàng trong liên minh thẻ VNBC, ngân hàng đã làm tăng thêm tính thuận tiện trong thanh toán, để khách hàng có thể thanh toán ở mọi nơi mọi lúc.
Thứ ba, về doanh số và lợi nhuận
Với sự đầu tư về cơ sở hạ tầng và kỹ thuật, Chi nhánh đã đem tới cho khách hàng sự an toàn, thuận tiện và nhanh chóng, và chính điều này đã mang lại cho Chi nhánh mức tăng trưởng cao về doanh số cũng như lợi nhuận, góp phần quan trọng vào tổng lợi nhuận (lợi nhuận thanh toán thẻ chiếm 17,3% tổng lợi nhuận của toàn ngân hàng năm 2008).
Với những thành tựu đã nêu trên, dịch vụ thẻ đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển của NHĐA chi nhánh Hà Nội nói riêng và NHĐA nói chung. Vì vậy, Ngân hàng đã được trao tặng nhiều giải thưởng như Giải thưởng SMART50 dành cho 50 doanh nghiệp hàng đầu của châu Á ứng dụng thành công IT vào công việc kinh doanh do Tạp chí công nghệ thông tin hàng đầu Châu Á Zdnet trao tặng, Giải thưởng “Công nghệ Thông tin – Truyền thông thành phố Hồ Chí Minh” dành cho “Doanh nghiệp ứng dụng Công nghệ Thông tin – Truyền thông” tiêu biểu 2008, Top 200: Chiến lược công nghiệp của các doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam theo bình chọn của Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP).
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3.2.1. Hạn chế
Tuy hoạt động thanh toán thẻ đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong thời gian vừa qua nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại một số hạn chế vướng mắc đã làm cản trở hoạt động này tại Chi nhánh.
Thứ nhất, vẫn xảy ra nhiều rủi ro trong thanh toán thẻ tại Chi nhánh
Có thể nhận thấy rằng, tuy đã được đầu tư công nghệ với tốc độ thanh toán tương đối nhanh, nhưng hệ thống đôi khi vẫn gặp những trục trặc như máy tạm ngưng giao dịch, máy hết tiền, hoặc thông báo mất thẻ, tài khoản thẻ bị lợi dụng vẫn xảy ra tương đối nhiều.
Thứ hai, mạng lưới thanh toán được phát triển chưa rộng rãi và hợp lý
Hiện tại, số lượng ATM và POS của chi nhánh chiếm tỷ lệ khá lớn tại Hà Nội, nhưng nếu so với một thị trường bán lẻ sôi động và được đánh giá là có tốc độ phát triển nhanh chóng như ở nơi đây, thì con số đó vẫn còn quá khiêm tốn (kể cả khi NHĐA đã kết nối vào liên minh thẻ VNBC thì con số này cũng không tăng lên đáng kể).
Bên cạnh đó, sự phân bổ của các máy này không đồng đều, chỉ tập trung chủ yếu ở những khu vực đông dân cư, những khu buôn bán đô thị lớn, nhà hàng khách sạn sang trọng nên chưa phổ biến rộng rãi trong mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Sự phát triển không đồng đều giữa hai hệ thống POS và ATM cũng gây ra những bất hợp lý trong chính sách phát triển mạng lưới của chi nhánh. Trong khi chi phí lắp đặt POS thấp hơn, diện tích tốn ít hơn nhiều hơn so với ATM thì số lượng POS của Chi nhánh vẫn đang ở mức thấp (87 máy – thấp hơn so với số lượng ATM). Với số lượng ATM ngày càng mở rộng và POS chỉ tăng lên chậm chạp như hiện nay thì việc tham gia vào thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt của Chính phủ vẫn sẽ còn gặp nhiều khó khăn.
Thứ ba, hoạt động của hệ thống POS và ATM còn chưa hiệu quả
Tuy doanh số thanh toán thẻ có tăng trong những năm gần đây song tốc độ tăng của doanh số thanh toán không tương xứng với tốc độ phát triển của mạng lưới ATM và POS.
Không những vậy, trong doanh số thanh toán, các giao dịch rút tiền mặt lại chiếm tỷ trọng cao nhất (gần 60%), trong khi các hoạt động thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ và chuyển khoản qua ATM chỉ chiếm 40%. Điều này đang đi ngược lại với mục tiêu cơ bản của hệ thống ATM đó là nhằm tăng cường khả năng thanh toán bằng chuyển khoản qua các giao dịch tự động và đáp ứng nhu cầu rút tiền mặt nhỏ lẻ. Hệ thống POS mới chỉ phục vụ nhiều cho các giao dịch thẻ quốc tế của khách nước ngoài.
Thứ tư, tiện ích thanh toán chưa được triển khai đầy đủ
NHĐA chi nhánh Hà Nội luôn nâng cao và phát triển các tiện ích thanh toán qua ATM và POS như thanh toán phí bảo hiểm, mua thẻ cào Internet, điện thoại di động…, nhưng một số tiện ích nổi trội khác đã được triển khai rất hiệu quả tại nhiều chi nhánh ở TP.HCM như thanh toán tiền điện, nước, điện thoại vẫn chưa được triển khai tại Hà Nội.
2.3.2.2. Nguyên nhân
a, Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, ảnh hưởng của môi trường kinh tế – xã hội
Thu nhập của đại đa số người dân Việt Nam còn ở mức thấp, vì vậy khả năng tiếp cận với dịch vụ thanh toán thẻ hiện đại còn hạn chế. Còn đối với những người có khả năng tiếp cận (chẳng hạn công nhân viên chức, người nhận lương qua thẻ) lại có mức lương chưa cao nên đến mỗi kỳ nhận lương, đa phần họ đều rút toàn bộ số tiền lương đó để sử dụng và chỉ để lại số dư tối thiểu theo yêu cầu của ngân hàng. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Bên cạnh yếu tố thu nhập, trình độ dân trí và thói quen tiêu dùng tại Việt Nam cũng tác động mạnh tới hoạt động thanh toán thẻ. Giống như bất cứ loại hình dịch vụ mới ra đời nào, người tiêu dùng cũng cần một thời gian để làm quen, tìm hiểu và học cách sử dụng. Chính vì thế mà trong thời gian đầu, chủ thẻ không thể ngay lập tức biết cách sử dụng và bảo quản thẻ, nhiều khách hàng còn không có ý thức bảo mật số PIN cá nhân hay sử dụng nhiều số PIN tương đối dễ bị lộ và bỏ qua khuyến cáo của ngân hàng. Điều này cũng là một lý do dẫn tới rủi ro trong hoạt động thanh toán thẻ ngày một gia tăng. Mặt khác, tại Việt Nam, thói quen thanh toán bằng tiền mặt đã ăn sâu vào nếp nghĩ, nếp sinh hoạt của từng người dân khiến hoạt động thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ vẫn chưa nhận được sự chấp nhận của đa số, và các chủ thẻ vẫn chỉ dùng thẻ như một công cụ rút tiền mặt không hơn. Điều này khiến cho các ĐVCNT không mặn mà với việc thanh toán thẻ mà vẫn thu tiền mặt, hoặc nếu có thanh toán thì thu thêm phụ phí thanh toán thẻ. Trong bối cảnh đó, việc phát triển mạng lưới ĐVCNT cũng gặp nhiều khó khăn. Đây cũng là nguyên nhân giải thích vì sao ở Việt Nam, số lượng các ĐVCNT còn ít, mạng lưới thanh toán chủ yếu thông qua ATM, và giao dịch thanh toán chủ yếu là giao dịch rút tiền mặt.
Thứ hai, môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán thẻ tại Việt Nam vẫn chưa được hoàn thiện
Hiện nay, các văn bản pháp quy về thẻ do NHNN ban hành còn thiếu và bất cập, chưa phù hợp với tình hình thực tiễn. Hoạt động thẻ đang được điều chỉnh bởi Quyết định 20/2007/QĐ – NHNN ban hành ngày 15/05/2007 về việc Ban hành Quy chế phát hành, thanh toán, sử dụng và cung cấp dịch vụ hỗ trợ hoạt động thẻ ngân hàng. Bên cạnh đó, việc thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt mới đang trong giai đoạn đầu thực hiện nên số lượng cá nhân và doanh nghiệp sử dụng tiền mặt để thanh toán vẫn chiếm tỷ trọng lớn.
Đồng thời, ở nước ta vẫn chưa có một bộ luật thống nhất điều chỉnh mọi quan hệ giao dịch điện tử và quản lý rủi ro, chính vì thế khi tranh chấp xảy ra trong lĩnh vực thanh toán thẻ rất khó xử lý. Đây là nguyên nhân khiến các ngân hàng bị hạn chế trong việc cung cấp thêm các dịch vụ, tiện ích thanh toán thẻ khác.
Thứ ba, môi trường công nghệ cho hoạt động thanh toán chưa hỗ trợ nhiều cho hoạt động thanh toán thẻ
Hiện tại, Chính phủ vẫn chưa xây dựng được một môi trường công nghệ thúc đẩy mạnh hoạt động thanh toán thẻ như hệ thống thương mại điện tử, Internet Banking, thẻ thông minh… Bên cạnh đó, mức thuế nhập khẩu của các máy móc có liên quan đến hoạt động thanh toán thẻ vẫn còn cao, từ đó gây ra khó khăn về vốn cho các ngân hàng, và hạn chế việc tạo ra môi trường công nghệ cao trong nước.
b, Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, hạn chế về vốn và hiệu quả đầu tư vốn
Về vốn, do là một ngân hàng TMCP mới được thành lập 16 năm nay, vốn điều lệ của NHĐA ở mức 2880 tỷ đồng, kém rất nhiều so với những NHTM quốc doanh khác như BIDV, VietinBank…Mặt khác, hoạt động thanh toán thẻ lại dựa trên những ứng dụng hiện đại, đòi hỏi phải có một mạng lưới thanh toán trên quy mô lớn đồng nghĩa với việc phải đầu tư rất nhiều vốn. Để duy trì hoạt động của một máy ATM, chi phí tối thiểu một năm vào khoảng 150 đến 200 triệu đồng gồm: chi phí khấu hao máy, chi phí thuê địa điểm lắp đặt, chi phí bảo vệ, điện, sửa chữa bảo dưỡng định kỳ, chưa kể các chi phí mua phần mềm quản lý ATM, lương nhân viên kỹ thuật bảo dưỡng, sửa chữa nhỏ, tiếp quỹ…, mỗi máy ATM có giá từ 40.000 đến 60.000 USD, còn POS là 400 đến 600 USD. Với một lượng vốn lớn cần đầu tư như vậy khiến mạng lưới của Chi nhánh tuy nằm trong nhóm những ngân hàng dẫn đầu tại Hà Nội nhưng vẫn còn quá mỏng, chưa đáp ứng được nhu cầu thanh toán của người dân, chỉ tập trung tại những địa bàn đông dân cư, khu vực phát triển nên không đảm bảo tính thuận tiện.
Về hiệu quả sử dụng vốn, do những hạn chế về vốn nên việc đầu tư mở rộng mạng lưới còn gặp nhiều khó khăn. Nhưng trong hoàn cảnh đó, Chi nhánh lại quá chú trọng đến việc phát triển mạng lưới ATM mà mạng lưới POS chưa triển khai rộng rãi dù chi phí mua và lắp đặt POS thấp hơn nhiều so với ATM. Việc mở rộng ĐVCNT này lại cũng chưa được phối hợp đồng bộ với những hoạt động khác như đầu tư vào Marketing, chăm sóc khách hàng, hoạt động quản lý rủi ro. Do đó, đây cũng là nguyên nhân giảm tính hiệu quả trong thanh toán thẻ tại Chi nhánh.
Thứ hai, hạn chế về công nghệ ứng dụng
Dù đã ứng dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào hoạt động thanh toán thẻ nhưng những công nghệ này vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu thanh toán hiện nay, máy móc thường bị quá tải, hoặc sự cố hệ thống, vì vậy đã gây ra những rủi ro thanh toán thẻ cho ngân hàng. Bên cạnh đó, các ATM và POS của ngân hàng vẫn chưa đọc được thẻ chip nên việc mở rộng phạm vi thanh toán vẫn còn hạn chế.
Thứ ba, chính sách Marketing tại NHĐA chưa được hoàn thiện
Chính sách Marketing được NHĐA đề ra vẫn còn một số hạn chế nhất định tác động tới sự phát triển của hoạt động thanh toán thẻ như sau:
Về chính sách giá, phí dịch vụ cho hoạt động thanh toán thẻ qua POS vẫn được các ĐVCNT đánh giá là chưa hợp lý (từ 1,1% tới 3,6% giá trị thanh toán tùy theo loại thẻ). Vì vậy, nhiều điểm bán hàng chưa mặn mà lắm với dịch vụ thanh toán này, và chỉ chấp nhận thanh toán bằng tiền mặt. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Về chính sách quảng cáo, các hoạt động quảng cáo truyền thông nâng cao uy tín và hình ảnh của ngân hàng chưa được tiến hành đồng loạt trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Về chính sách sản phẩm, còn nhiều tiện ích mà ngân hàng chưa triển khai, chưa đem lại tiện lợi cho khách hàng khi thanh toán bằng thẻ.
Ngoài ra, việc thực hiện chính sách Marketing tại Hội sở và Chi nhánh đôi khi bị chồng chéo, giảm đáng kể hiệu quả của hoạt động này.
Thứ tư, những hạn chế về trình độ cán bộ ngân hàng trong hoạt động thanh toán thẻ
Trong hoạt động xử lý nghiệp vụ, tuy Chi nhánh có được một đội ngũ nhân viên được đào tạo bài bản với hơn 80% có trình độ cao đẳng trở lên nhưng do lĩnh vực thanh toán thẻ còn khá mới lạ tại thị trường Việt Nam nên kinh nghiệm của nhân viên trong lĩnh vực này còn chưa nhiều.
Trong hoạt động Marketing, những cán bộ đảm trách công tác này tại Chi nhánh ngân hàng chưa được đào tạo chuyên sâu và chuyên trách khiến công tác này vẫn còn nghèo nàn, kém hấp dẫn.
Trong hoạt động quản lý rủi ro, cán bộ ngân hàng làm nhiệm vụ quản lý rủi ro mới chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận thông tin và giải quyết mà chưa có nhiều biện pháp tích cực để hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Bên cạnh đó, việc một số ĐVCNT thu thêm phụ phí thanh toán thẻ gây phiền toái cho người sử dụng thẻ cũng chưa được kiểm tra sát sao và xử lý kiên quyết, là môt phần nguyên nhân khiến doanh số thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng thẻ còn hạn chế. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Thứ năm, hạn chế trong hoạt động quản lý rủi ro tại Chi nhánh
Bên cạnh yếu tố công nghệ và hiểu biết trong sử dụng thẻ của người dân, hoạt động quản lý rủi ro chưa hiệu quả cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới việc tồn tại nhiều rủi ro trong thanh toán tại Chi nhánh. Với số lượng 25 nhân sự, Phòng thẻ tại chi nhánh vẫn chưa có một bộ phận quản lý rủi ro riêng mà hầu như mới chỉ dừng lại ở việc tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại, thắc mắc của khách hàng về những sự cố liên quan đến thẻ, mã PIN. Trong khi đó, công tác ngăn ngừa và hạn chế rủi ro lại không có được sự quan tâm đúng mức.
Xem thêm: Lời mở đầu hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH THANH TOÁN THẺ NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
I/ MỘT VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU.
1.1. Khái quát về ngân hàng TMCP á Châu
Ngân hàng TMCP á Châu (Asia Commercial Bank- ACB) được thành lập ngày 13/5/1993 và bắt đầu hoạt động kinh doanh từ ngày 4/6/1993 theo giấy phép hoạt động số 0032/ NH-GP ngày 24/4/1993 của thống đốc NHNN. ACB là một trong những ngân hàng TMCP được thành lập mới sau khi hai Pháp lệnh Ngân hàng Việt Nam ra đời. Tuy ra đời và hoạt động trong điều kiện hệ thống tài chính tiền tệ trong nước gặp nhiều khó khăn, niềm tin của công chúng đối với hệ thống ngân hàng trong nước giảm sút nhưng kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP á Châu trong thời gian qua đã khẳng định bước đi vững chắc của Ngân hàng. Những kết quả đó đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Ngân hàng trong nỗ lực vươn lên từ một ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ bé, thiếu và yếu kinh nghiệm trở thành một ngân hàng vững mạnh có uy tín trên thị trường trong nước và quốc tế. Hiện nay Ngân hàng TMCP á Châu được đánh giá là một trong những ngân hàng thương mại cồ phần phát triển vững mạnh nhất Việt Nam. Trong 3 năm 1997, 1998, 1999, Ngân hàng TMCP á Châu liên tục được bình chọn là ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhất tại Việt Nam, và là một trong 10 ngân hàng hoạt động xuất sắc nhất Đông Nam á (theo các tạp chí có uy tín trên thế giới như Euromoney (Anh), Globalfinance (Hoa Kỳ) bình chọn).
Vốn điều lệ tại thời điểm thành lập ngân hàng là 20 tỷ VNĐ, thuộc sở hữu của 27 cổ đông. Đến nay sau nhiều lần tăng vốn, 70 tỷ vào năm 1994, 341.428 tỷ VNĐ vào năm 1998, 353.711 tỷ VNĐ vào năm 2000, và tới năm 2001 vốn điều lệ của ngân hàng đã lên đến 7399 tỷ VNĐ, tăng 15% so với năm 2000, tăng gấp 5 lần so với năm 1997. Qua đây có thể thấy được hoạt động kinh doanh của ngân hàng TMCP á Châu là rất hiệu quả. Tổng số vốn tự có của ngân hàng là 403.311 tỷ VNĐ là vốn góp của 533 cổ đông, trong đó:
- – Cổ đông nước ngoài chiếm 25,46% bao gồm:
- + Connaught Investors Ltd
- + LG Merchant Banking Corporation.
- + VietNam Fund Ltd ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- + Dragon Capital Ltd.
- – Cổ đông trong nước là pháp nhân chiếm 17.97%
- – Cổ đông trong nước là thể nhân chiếm 56.57%
Như vậy, hiện nay ACB có vốn điều lệ cao nhất trong hệ thống ngân hàng TMCP tại Việt Nam
1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP á Châu:
Trong tiến trình hội nhập cùng khu vực và quốc tế, Ngân hàng TMCP á Châu đã không ngừng phấn đấu phát triển an toàn và hiệu quả, trở thành một trong những thành viên chủ chốt trên thị trường tài chính, tiền tệ Việt Nam, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, nâng cao chất lượng cho mọi thành phần kinh tế và giữ vững niềm tin cho đông đảo bạn hàng trong nước và quốc tế
Sau gần 10 năm thành lập, hoạt động và phát triển, ACB đã có một chỗ đứng vững chắc trong điều kiện cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng và các tổ chức kinh tế. Nắm bắt được những thời cơ, thuận lợi do môi trường kinh tế của đất nước đang khởi sắc đưa lại, ACB đã thu được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ.
Tăng trưởng nguồn vốn
Trong những năm vừa qua, nguồn vốn của ACB liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao. Tính đến thời điểm hiện tại thì ACB có quy mô vốn hoạt động lớn nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam. Tổng vốn hoạt động đến 31/12/2001 là 7399 tỷ đồng và tiếp tục tăng đến 30/06/2002 đã là hơn 8517 tỷ, tăng 14,3% so với đầu năm. Tổng vốn huy động đến 6 tháng đầu năm 2002 đạt số dư là 7668 tỷ, tăng 1000 tỷ so với đầu năm, tương đương mức tăng là 15%, VHĐ các loại tiền gửi đều tăng. Nguồn vốn huy động tăng trưởng ổn định qua các năm do ACB có nhiều sản phẩm tiền gửi đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, nhất là khách hàng cá nhân; chất lượng dịch vụ được nâng cao và chính sách lãi suất, phí dịch vụ hợp lý, phù hợp với thị trường, vừa duy trì được khách hàng hiện hữu vừa làm tăng nhiều khách hàng mới.
Chất lượng tín dụng tăng trưởng cao và an toàn
Trong 5 năm qua (1997-2001), hoạt động tín dụng của ACB luôn đạt mức tăng trưởng cao. Tính đến ngày 31/12/2001, dư nợ cho vay đạt 2794 tỷ đồng, tăng 25% so với năm 2000 (hơn gấp 3 lần so với mức tăng 7,6% của toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam), đến 30/06/2002, dư nợ cho vay đã đạt 3168 tỷ đồng, trong đó cho vay nền kinh tế đạt 3040 tỷ, tăng 330 tỷ so với đầu năm, tương ứng với tỷ lệ tăng là 12%. Có được điều này là do ACB đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế, cung cấp nhiều sản phẩm tín dụng như cho vay bổ sung vốn kinh doanh, tài trợ và đồng tài trợ các dự án đầu tư, tài trợ xuất nhập khẩu, cho vay sinh hoạt tiêu dùng, cho vay xây dựng sửa chữa nhà, cho vay mua nhà với thời hạn cho vay phù hợp với nhu cầu. Thêm vào đó chính sách lãi suất tín dụng hợp lí, thời gian xét duyệt hồ sơ vay và giải ngân nhanh chóng đã thu hút đông đảo khách hàng đến vay vốn tại ACB. Trong những năm tiếp theo, ACB cố gắng giữ vững tốc độ tăng trưởng tín dụng ổn định, vừa hướng đến khách hàng cá nhân vừa hướng đến khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển thêm sản phẩm cho vay mới, tiếp tục đồng tài trợ cho các dự án lớn. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Tuy tốc độ tăng trưởng tín dụng cao nhưng tính an toàn và hiệu quả của hoạt động tín dụng luôn được đảm bảo, cụ thể là trong 5 năm qua (1997-2001), tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ luôn ở mức dưới 5% và có xu hướng giảm dần. Đến cuối năm 2001 tỷ lệ này chỉ còn 0,66% trên tổng dư nợ, tương đương số dư nợ quá hạn là 18,466 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ quá hạn thấp góp phần làm cho tình hình tài chính của ACB luôn lành mạnh. ACB có cơ chế xét cấp tín dụng chặt chẽ, phán quyết cho vay dựa trên sự thống nhất phê chuẩn của Hội đồng tín dụng hoặc Ban tín dụng. Giữa các khâu thẩm định, đánh giá, xét duyệt trong quy trình tín dụng có sự độc lập và khách quan. Công tác đánh giá tín dụng thường xuyên được thực hiện nhằm giám sát, dự báo rủi ro tín dụng để có các biện pháp ngăn ngừa hoặc xử lý kịp thời
Thanh toán quốc tế.
Năm 2001, doanh số thanh toán quốc tế đạt 364 triệu USD, thu phí dịch vụ đạt 23,2 tỷ đồng, trong đó doanh số thanh toán quốc tế mậu dịch là 215 triệu USD với phí dịch vụ là 9,6 tỷ đồng (chiếm 41,3% tổng số phí dịch vụ thanh toán quốc tế) và doanh số thanh toán phi mậu dịch là 148 triệu USD với phí dịch vụ là 13,6 tỷ đồng (chiếm 59% tổng số phí dịch vụ thanh toán quốc tế).
Riêng với chi nhánh Hà Nội, trong năm 2002 chi nhánh đã mở 97 L/C nhập khẩu trả ngay trị giá 9.487.458,56 USD tăng 1% về mặt giá trị và 33% về mặt số lượng L/C đã phát hành. Số lượng L/C đã thanh toán là 90 tương đương giá trị 8.126.336,78 USD bằng 96% L/C đã phát hành trong năm 2002. Doanh số thanh toán quốc tế (bao gồm cả thanh toán nhờ thu và điện chuyển tiền) tăng 4.128.847,26 USD.
Dịch vụ địa ốc và công ty chứng khoán ACB.
Trung tâm địa ốc ACB đã đi vào hoạt động được 5 năm kể từ tháng 2/1997. Trong tyhời gian đầu, chỉ có dịch vụ thanh toán tiền mua bán nhà qua ngân hàng, đến nay trung tâm đã phát triển các dịch vụ trọn gói liên quan đến nhà đất từ khâu quảng cáo giao bán nhà đất, trung gian thanh toán đến hướng dẫn thủ tục pháp lý. Tháng 12/2001, Trung tâm được chuyển thành Siêu thị địa ốc ACB, đã mở rộng mạng lưới giao dịch lên tới bảy điểm. Qua 5 năm hoạt động, siêu thị đã thực hiện thanh toán cho hơn 4000 giao dịch bất động sản với tổng trị giá trên 455.000 lượng vàng, tạo điều kiện cho khách hàng vay mua nhà đất với doanh số cho vay trên 275 tỷ đồng, góp phần tăng trưởng dư nợ cho vay và gia tăng tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ.
Công ty chứng khoán ACB (ACBS) khai trương hoạt động từ tháng 7/2000. Tính đến cuối năm 2001 với hơn 1730 tài khoản giao dịch của khách hàng, ACBS chiếm hơn 30% thi phần khách hàng giao dịch chứng khoán. ACBS được đánh giá là công ty hàng đầu trong số 9 công ty chứng khoán đang hoạt động tại Việt Nam. Với 145 phiên giao dịch trong năm, ACBS đã thực hiện môi giới chứng khoán với doanh số 278 tỷ đồng và thu phí hoa hồng môi giới là 1,39 tỷ đồng ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Phát triển công nghệ.
Công nghệ luôn là một lĩnh vực được ACB quan tâm đặc biệt. Từ tháng 10/2001, ACB đã chính thức đưa hệ quản trị nghiệp vụ ngân hàng TCBS (The Complete Banking Solution) vào sử dụng. TCBS là hệ quản trị được xây dựng trên nguyên tắc khách-chủ (Client-Server) với cơ sở dữ liệu tập trung và xử lý giao dịch theo thời gian thực. ACB đã thiết lập hạ tầng thông tin là mạng diện rộng kết nối hội sở với tất cả các chi nhánh. Thông tin, dữ liệu được quản lý và lưu trữ qua hệ quản trị cơ sở dữ liệu Oracle. TCBS cho phép ACB triển khai các sản phẩm, dịch vụ, tiện ích cho khách hàng trong tương lai như thẻ ghi nợ, hệ thống máy rút tiền tự động (ATM) cũng như tiến tới các dịch vụ ngân hàng điện tử, ngân hàng qua Internet…TCBS cũng tạo cơ sở cho việc chuẩn hoá quy trình phục vụ khách hàng.
Xem thêm: Cơ sở lý luận hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng
II/ HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH VÀ THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
1.1. Những bước đi đầu tiên:
Việc phát triển đa dạng hoá các hình thức dịch vụ kinh doanh sẽ tạo cho ngân hàng có điều kiện nâng cao uy tín của mình trên thị trường và khả năng sinh lời cao. Do vậy, một ngân hàng muốn tồn tại và phát triển trong giai đoạn cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ là việc cần làm và nhất thiết phải làm. Kinh doanh thẻ là một lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lời cao nhưng lại là lĩnh vực kinh doanh hoàn toàn mới mẻ, nên đòi hỏi các ngân hàng phải có sự đầu tư chiều sâu về hạ tầng cũng như về con người. ý thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ kinh doanh thẻ, nên ngay sau khi ra đời, ACB đã rất chú trọng phát triển nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ. ACB đã xúc tiến chuẩn bị nhân sự cũng như trang thiết bị để xây dựng trung tâm thẻ ngân hàng. Đến 09/02/1996, Trung tâm thẻ ACB chính thức thành lập.
Cùng với việc hoàn tất các thủ tục để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế Mastercard (27/03/96) và xin phép Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Trung tâm thẻ ACB gồm 28 nhân viên đã được tuyển dụng, đào tạo trong các lĩnh vực chuyên môn của nghiệp vụ thẻ, xây dựng hệ thống xử lý giao dịch thẻ và truyền dữ liệu nối kết thành công với hệ thống Banknet của tổ chức Mastercard quốc tế vào cuối năm 1995. Việc chuẩn bị cho việc phát hành thẻ ACB Mastercard quốc tế và chấp nhận thanh toán bằng thẻ Mastercard đã được thực hiện hoàn chỉnh và Trung tâm rhẻ ACB đã chính thức công bố hoạt động dịch vụ thẻ Mastercard quốc tế vào ngày 27/04/1996. Bên cạnh đó, với mong muốn đa dạng hoá dịch vụ thẻ tín dụng tại Việt Nam và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, Trung tâm thẻ ACB đã đệ đơn xin gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Visa. Ngày 25/10/1996 tổ chức thẻ quốc tế Visa đã công nhận ACB là thành viên chính thức sau khi xem xét quy mô tổ chức và kỹ năng điều hành, yêu cầu kỹ thuật của Ngân hàng á Châu và Trung tâm thẻ ACB. Ngày 20/01/1997, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép Ngân hàng á Châu được phép phát hành và thanh toán thẻ Visa tại Việt Nam. Như vậy, Ngân hàng TMCP á Châu cùng với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam trở thành hai thành viên đầu tiên tại Việt Nam tham gia vào lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ ngân hàng.
Sau một thời gian tham gia vào thị trường thẻ Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của sản phẩm thẻ tín dụng cũng như tiềm năng phát triển của loại hình thanh toán này trên lãnh thổ Việt Nam, sau một thời gian chuẩn bị, ngày 28/04/1999, ACB đã công bố việc tham gia phát hành thẻ tín dụng công ty ACB-VISA, một sản phẩm đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Có thể nói, ACB là một trong số ít những ngân hàng đầu tiên tại Việt Nam là thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất thế giới, đánh dấu thêm một bước tiến của ACB trên con đường hiện đại hoá và hội nhập vào hệ thống thanh toán toàn cầu.
Cùng với việc phát triển thẻ tín dụng quốc tế, ACB cũng rất chú trọng đến việc phát triển thẻ tín dụng nội địa, vì thẻ nội địa phù hợp với nhu cầu, thu nhập của đa số người dân Việt Nam. Hơn nữa, việc sử dụng thẻ nội địa cũng không khác nhiều so với thẻ quốc tế, chỉ khác là phạm vi sử dụng thẻ chỉ nằm trong lãnh thổ Việt Nam.
Hiện nay, ACB đang xúc tiến tiếp cận với tất cả các tổ chức phát hành thẻ tín dụng quốc tế tạo điều kiện đưa tất cả các loại thẻ tín dụng khác như American Express, JCB, Dinner Club, Mastro EuroCard, Att Card, VisionCard, Countdown, GM Card JP Peney vào thương trường Việt Nam. Nói cách khác, rồi đây các loại thẻ tín dụng quốc tế được du khách mang đi sử dụng ở bất kỳ nơi nào trên toàn thế giới cũng đều được chấp nhận tại Việt Nam.
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng thẻ ngày càng tăng, trong năm 2000, Trung tâm thẻ đã mở rộng mạng lưới đại lý chấp nhận thẻ trên hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, tạo tiện ích tối đa cho khách hàng. Sự ra đời của thẻ tín dụng nội địa ACB-Saigon Tourist và ACB-Saigon Co-op vào cuối năm 2000 nhằm đáp ứng nhu cầu sử thẻ ngày càng cao, đã đánh dấu bước đầu thành công của Trung tâm thẻ trong việc tiên phong phát triển thẻ nội địa tại Việt Nam.
Những thành công trong năm 2000 đã tiếp tục được đẩy mạnh và phát triển trong năm 2001 với sự ra đời của hai sản phẩm mới là thẻ tín dụng nội địa ACB-Mai Linh và ACB-Phước Lộc Thọ. Đầu tháng 6/2002, ACB đã phát hành một dạng thẻ Debit nội địa mang nhãn hiệu ACB e.Card. Đây là loại thẻ nhằm hướng đến tất cả các khách hàng có nhu cầu sử dụng thẻ bằng thu nhập riêng của mình mà không cần đến tiền vay của ngân hàng. Cũng trong năm 2002, ACB đã triển khai thành công chương trình chấp nhận thanh toán thẻ Visa Electron và MasterCard Electronic. Bên cạnh đó, ACB tiếp tục trang bị hệ thống máy rút tiền tự động ATM tại các chi nhánh và trung tâm thương mại ở các thành phố lớn nhằm đem lại tiện ích tối đa cho khách hàng.
1.2. Các loại thẻ do Ngân hàng TMCP á Châu đang phát hành:
a/ Thẻ tín dụng quốc tế.
– Thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn ký quỹ.
Là loại thẻ đáp ứng nhu cầu sử dụng của cá nhân do cá nhân thanh toán bằng nguồn tiền của mình. Đặc điểm của loại thẻ này là mỗi tháng sau khi nhận được bảng thông báo giao dịch do Trung tâm thẻ ACB gửi đến, chủ thẻ được phép thanh toán trước 20% số dư nợ trên tài khoản thẻ, 80% còn lại (là tín dụng được ACB cấp trong 3 kỳ hoá đơn) được phép nợ và sẽ chịu phí tài chính theo quy định hiện hành của ACB. Để được sử dụng thẻ khách hàng phải ký quỹ tại ngân hàng đó là số tiền đồng Việt Nam mà khách hàng phải nộp vào tài khoản của Trung tâm thẻ ACB để đảm bảo cho việc sử dụng thẻ tín dụng do ngân hàng phát hành. Khách hàng có thể ký quỹ bằng cách cầm cố một sổ tiết kiệm hay mở tài khoản tiền gửi phong toả trong thời hạn 12 tháng (có hưởng lãi), và thường số tiền ký quỹ này phải bằng hoặc lớn hơn hạn mức tín dụng (số tiền tối đa mà chủ thẻ được phép sử dụng để giao dịch thẻ mà ACB cho phép) của thẻ. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
– Thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn không ký quỹ.
Loại thẻ này nói chung không khác gì so với thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn ký quỹ, điểm khác nhau duy nhất là thẻ ACB Mastercard và ACB VISA tín dụng tuần hoàn không ký quỹ cấp cho khách hàng có uy tín, khách hàng đặc biệt của ACB; những khách hàng được sự bảo lãnh thanh toán của Ngân hàng hay của các cơ quan, công ty; họ thường là những khách hàng có thu nhập cao và ổn định.
– Thẻ ACB VISA Business.
Là loại thẻ do ACB phát hành cho các công ty, tổ chức có nhu cầu sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của tổ chức, công ty đó. Tổ chức, công ty xin phát hành thẻ uỷ quyền cho các nhân viên thuộc tổ chức, công ty sử dụng thẻ và chỉ định rõ hạn mức cho từng thẻ trong đơn xin phát hành. Tổng hạn mức tín dụng của các thẻ bằng hạn mức chung quy định trong bản thoả thuận do công ty ký với ngân hàng về việc tham gia chương trình thẻ công ty.
Trong đó tuỳ từng loại thẻ mà ngân hàng đưa ra các loại sản phẩm thẻ kèm theo.
– Riêng đối với thẻ cá nhân, ACB phát hành hai loại:
- + Thẻ chính: do cá nhân đứng tên xin phát hành cho mình sử dụng và cá nhân đó là chủ thẻ chính.
- + Thẻ phụ: do chủ thẻ chính là cá nhân đứng tên xin phát hành cho một người khác và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ các khoản chi tiêu của thẻ phụ.
– Thẻ tín dụng do ACB phát hành có hai loại
- + Thẻ vàng: có hạn mức tín dụng cao từ trên 50 triệu VND đến dưới 100 triệu VND
- + Thẻ chuẩn: có hạn mức tín dụng thấp hơn thẻ vàng từ 10 triệu VND đến dưới 50 triệu VND
b/ Thẻ tín dụng nội địa:
Là sản phẩm thẻ tín dụng do ACB phát hành phối hợp với Saigon-Coop (Liên minh các hợp tác xã thành phố Hồ Chí Minh) và Tổng công ty du lịch Sài gòn (Saigon Tourist). Về cách sử dụng, thẻ tín dụng nội địa tương tự như cách sử dụng của thẻ tín dụng quốc tế do ACB phát hành tức là có thể sử dụng thẻ để thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ, hay rút tiền mặt nhưng chỉ được sử dụng trong lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, khách hàng khi sử dụng thẻ tín dụng ACB-Card còn được hưởng các ưu đãi từ phía các đối tác phát hành của ACB như được chiết khấu giảm giá khi sử dụng các dịch vụ do đối tác của ACB cung cấp. Hiện nay, ACB đang phát hành rộng rãi loại thẻ này đến mọi đối tượng khách hàng với hạn mức tối thiểu là 2 triệu VND.
Từ năm 2001, ACB tiếp tục cho ra đời hai sản phẩm thẻ tín dụng nội địa đó là ACB- Mai Linh và ACB- Phước Lộc Thọ, và kết quả mà ACB thu được từ việc phát hành hai loại thẻ mới này là rất thành công. Tháng 6/2002 ACB lại tiếp tục cho ra đời một loại thẻ tín dụng nội địa mang nhãn hiệu ACB e.Card. Doanh số phát hành loại thẻ mới này trong 6 tháng cuối năm 2002 cho thấy những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ của Trung tâm thẻ nói riêng và ACB nói chung trong việc đưa sản phẩm thẻ mới tiếp cận trên thị trường.
Như vậy, bằng việc đẩy mạnh nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng, ACB đã góp phần không nhỏ cho chương trình thương mại hoá điện tử, hạn chế được thói quen sử dụng tiền mặt, tiết kiệm được chi phí in tiền cho Nhà nước, ngăn chặn nạn in tiền giả đồng thời góp phần tăng thêm nguồn thu cho Ngân hàng á Châu nói chung và chi nhánh Hà Nội nói riêng. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Xem thêm: Kiến nghị – Giải pháp hoạt động pháp hành, thanh toán thẻ
1.3. Hoạt động nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tại ACB.
1.3.1. Nghiệp vụ phát hành thẻ.
a/ Nguyên tắc phát hành thẻ.
- – Hoạt động phát hành thẻ của ACB tuân theo những nguyên tắc cơ bản sau:
- – Phát hành thẻ phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng.
- – Phát hành thẻ phải có tài sản đảm bảo. Trường hợp không có tài sản đảm bảo phải được thức hiện theo quy định của Hội Đồng Tín Dụng (HĐTD) của ACB trong từng thời kỳ.
b/ Đối tượng được xét phát hành thẻ.
- – Cá nhân được xét cấp thẻ bao gồm :
- – Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam;
- – Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng;
- – Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở lên và có thu nhập hợp pháp tại Việt Nam;
- – Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng ở nước ngoài (không kể thời hạn );
- – Tổ chức (công ty) được xét phát hành thẻ công ty cho các cá nhân được công ty đề nghị cấp thẻ bao gồm:
- – Doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các tổ chức kinh tế khác của Việt Nam được thành lập và kinh doanh tại Việt Nam;
- – Doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động theo luất đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ;
- – Các cơ quan, đơn vị hành chính sự nghiệp .
c/ Điều kiện để được phát hành thẻ. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Khách hàng có nhu cầu sử dụng thẻ được ACB xem xét phát hành thẻ khi hội đủ các điều kiện sau:
- * Đối với thẻ cá nhân :
- – Chủ thẻ chính :
- + Có năng lực pháp luật năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của của pháp luật;
- + Có khả năng tài chính đảm bảo việc thực hiện đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ tài chính liên quan đến việc sử dụng thẻ của chủ thẻ chính và (các) chủ thẻ phụ;
- + Sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khi ACB có yêu cầu;
- + Có tài sản đảm bảo cho việc phát hành thẻ và /hoặc được người thứ ba thế chấp, cầm cố tài sản hợp pháp bảo lãnh thanh toán thay. Người thứ ba phải có năng lực hành vi dân sự (đối với cá nhân). Trường hợp phát hành thẻ không có tài sản đảm bảo được thực hiện theo quy định của HĐTD ACB theo từng thời kỳ .
– Chủ thẻ phụ :
- + Có năng lực pháp luật và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;
- + Sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khi ACB có yêu cầu;
- + Được chủ thẻ chính đề nghị cấp thẻ bằng văn bản.
- Riêng với các chủ thẻ là cá nhân người nước ngoài phải có thời hạn cư trú và làm việc tại Việt Nam bằng thời hạn sử dụng thẻ cộng với 60 ngày.
* Đối với thẻ công ty:
- – Công ty được xét cấp hạn mức tín dụng thẻ phải :
- + Có năng lực pháp luật dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật;
- + Có khả năng tài chính đảm bảo viêc thực hiện đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ tài chính liên quan đến việc sử dụng thẻ của các cá nhân được công ty đề nghị cấp thẻ;
- + Sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khác khi ACB có yêu cầu;
- + Có tài sản đảm bảo cho việc phát hành thẻ và / hoặc được bên thứ ba thế chấp cầm cố tài sản hợp pháp bảo lãnh thanh toán thay. Người thứ ba phải có năng lực pháp luật dân sự ( đối với pháp nhân ), hoặc có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự (đối với cá nhân ). Trường hợp phát hành thẻ không có tài sản đảm bảo được thực hiện theo quy định của HĐTD ACB trong từng thời kỳ.
- Ngoài ra công ty phải có tài khoản mở tại ACB hoặc các ngân hàng khác tại Việt Nam.
- – Cá nhân được công ty đề nghị cấp thẻ phải:
- + Có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự; ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- + Được công ty đề nghị cấp thẻ bằng văn bản.
(a) Hồ sơ phát hành thẻ :
- Đối với thẻ cá nhân : đối với các khách hàng là cá nhân, khi có nhu cầu sử dụng thẻ tín dụng do ACB phát hành, trong hồ sơ đề nghị phát hành thẻ Trung tâm thẻ ACB yêu cầu những những chứng từ cơ bản sau :
- – Hộ khẩu ;
- – Bản sao chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu ;
- – Giấy chứng nhận công tác (nếu có);
- – Hồ sơ về tài sản đảm bảo;
- – Các chứng từ khác liên quan nếu có .
- Đối với thẻ công ty :
- – Giấy yêu cầu sử dụng thẻ công ty;
- – Hợp đồng sử dụng thẻ;
- – Báo cáo tài chính trong hai năm gần nhất;
- – Các hồ sơ cần thiết liên quan đến các vấn đề trách nhiệm quản lý và sử dụng tài sản của công ty;
- – Hồ sơ về tài sản đảm bảo;
- – Hồ sơ các cá nhân được công ty đề nghị cấp thẻ (bản sao chứng minh thư nhân dân hoặc hộ khẩu, xác nhận của công ty về thời gian công tác);
- – Hợp đồng lao động;
- Đối với các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng lần đầu với ngân hàng, ngoài các chứng từ trên, phải nộp kèm theo:
- – Quyết định thành lập doanh nghiệp;
- – Giấy chứng nhận sản xuất kinh doanh; ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- – Các giấy tờ thủ tục giới thiệu, mẫu dấu, chữ ký người đứng đầu tổ chức và người được uỷ quyền;
(b)Trình tự phát hành.
- Đối với thẻ cá nhân :
- – Cá nhân điền vào Phiếu đề nghị phát hành thẻ (theo mẫu) và gửi đến Trung tâm thẻ ACB cùng với hồ sơ phát hành thẻ.
- – Căn cứ và hồ sơ nhận được, Trung tâm thẻ ACB tiến hành việc thẩm định và xét duyệt phát hành thẻ cho cho khách hàng thẻ. Nếu ngân hàng đồng ý phát hành thẻ, ACB và khách hàng thực hiện các bước sau:
- + Bổ sung các chứng từ cần thiết theo yêu cầu của ACB.
- + Hoàn tất thủ tục (cầm cố, phong toả) về tài sản đảm bảo.
- + Ký kết hợp đồng sử dụng thẻ.
- + Giao thẻ, PIN cho khách hàng, mở tài khoản thẻ cho khách hàng và quản lý tài khoản thẻ của khách hàng
- – Thủ tục phát hành thẻ phụ tương tự như thủ tục phát hành thẻ chính và chủ thẻ chính phải là người đề nghị cấp thẻ cho (các) chủ thẻ phụ.
- Đối với thẻ công ty:
- – Công ty gửi đến ACB văn bản đề nghị tham gia chương trình thẻ tín dụng công ty cùng với hồ sơ phát hành thẻ trên .
- – Căn cứ vào hồ sơ nhận được, ACB tiến hành thẩm định và xét duyệt phát hành thẻ cho các cá nhân được công ty đề nghị phát hành thẻ. Nếu đồng ý phát hành thẻ cho khách hàng, ACB, công ty và (các) cá nhân được công ty đề nghị cấp thẻ thực hiện tiếp các bước sau:
- + Bổ sung các chứng từ cần thiết theo yêu cầu của ACB.
- + Hoàn tất thủ tục (thế chấp, cầm cố, phong toả ) về tài sản đảm bảo.
- + Ký kết hợp đồng sử dụng thẻ.
- + Giao thẻ, PIN cho các cá nhân được uỷ quyền, mở tài khoản thẻ của khách hàng và quản lý tài khoản khách hàng.
- Việc thẩm định phát hành và gia hạn thẻ phải trên cơ sở nắm rõ khách hàng, đảm bảo các nguyên tắc tín dụng và đảm bảo an toàn cho ACB .
- Nội dung công tác thẩm định phát hành thẻ và gia hạn thẻ tương tự như nội dung thẩm định cho vay bao gồm các nội dung thẩm định theo thứ tự quan trọng như sau:
- – Tư cách chủ thẻ (đối với thẻ cá nhân) hoặc uy tín công ty (đối với thẻ công ty).
- – Khả năng thanh toán chủ thẻ (đối với thẻ cá nhân) hoặc công ty (đối với thẻ công ty).
- – Tiềm lực tài chính chủ thẻ (đối với thẻ cá nhân) hoặc công ty (đối với thẻ công ty
- – Tài sản đảm bảo.
- – Các yếu tố ảnh hưởng khác . ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
- Việc phát hành và giao thẻ cho khách hàng trực tiếp tại Trung tâm thẻ ACB hay qua chi nhánh phát hành phải đảm bảo bí mật, an toàn cho khách hàng, cũng như tránh những thiệt hại cho ACB.
1.3.2. Thực trạng thanh toán thẻ.
a/ Các loại thẻ mà ACB chấp nhận thanh toán.
Hiện nay, ACB chấp nhận thanh toán hai loại thẻ tín dụng quốc tế là Master Card và Visa kèm theo các loại thẻ tín dụng nội địa do ACB phát hành (ACB Card). Điều này có nghĩa là mọi loại thẻ tín dụng nào mang thương hiệu Visa hoặc MasterCard, hay ACB đều được ACB chấp nhận thanh toán. Đây là một điểm yếu của ACB với các ngân hàng khác như VCB vì họ có thể thanh toán thêm hai loại thanh toán khác ngoài Visa và MasterCard là American Express, JCB.
Trong hoạt động thanh toán thẻ, ACB luôn coi phát triển mạng lưới các đại lí chấp nhận thanh toán thẻ là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển dịch vụ thẻ. Trước tình hình cạnh tranh mạnh mẽ của ngân hàng khác, ACB đã đưa ra chương trình phát triển và mở rộng mạng lưới của mình. Cùng với tổ chức thẻ quốc tế Visa và Master Card, ACB có chương trình khuyến khích cán bộ Marketing nhằm mở rộng mạng lưới thanh toán thẻ của ACB, đồng thời ngoài đội ngũ nhân viên hiện có, ngân hàng cũng có kế hoạch triển khai đội ngũ cộng tác viên trong tiếp thị mở rộng mạng lưới đại lý. Việc tiếp thị cho sản phẩm thẻ được chấp nhận tại thị trường Việt Nam của ACB trong thời gian đầu rất khó khăn. Tuy nhiên với sự cố gắng không ngừng của ACB, đến cuối năm 2001, mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ đã mở rộng lên 3130 điểm, tính đến 29/04/2002 số đơn vị chấp nhận thẻ đã lên tới 3402 điểm. Điều đáng nói là mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ đã được ACB mở rộng không chỉ về mặt số lượng mà mở rộng các loại hình chấp nhận thẻ. Mạng lưới đại lý thuộc Trung tâm thẻ ACB bao gồm đa dạng các loại hình như các điểm rút tiền mặt, khách sạn nhà hàng, dịch vụ du lịch, vận tải, giải trí, các cửa hiệu bán lẻ, các trung tâm thương mại, siêu thị,…tập trung chủ yếu ở những nơi có cường độ cạnh tranh cao như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội…thậm chí ở cả những nơi không có chi nhánh của ACB nhưng có tiềm năng thanh toán thẻ như Hội An, Quảng Ninh, Huế, Hải Phòng…
Để tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường, giảm chi phí nghiệp vụ và giảm rủi ro trong thanh toán thẻ, ACB cũng đã trang bị gần 1000 thiết bị đọc thẻ tự động EDC cho các đại lý chấp nhận thẻ trên toàn hệ thống. Tuy rằng ACB có nhiều đại lý chấp nhận thẻ hơn các ngân hàng khác (hơn 3402 đại lý) nhưng hiện tại ACB phải đối mặt với rất nhiều khó khăn dó là áp lực cạnh tranh giữa các ngân hàng trong thanh toán thẻ. Thị phần của ACB bị chia sẻ với một số NHTM khác như: VCB, ANZ, EXIM Bank, UOB, FISTVINA Bank…Vì vậy, để thắng trong cạnh tranh, đòi hỏi ACB phải có những chương trình hoạt động về dịch vụ thẻ tốt hơn và ngày càng đem lại nhiều tiện ích tối đa cho khách hàng hơn.
2/ Những khó khăn trong phát hành và thanh toán thẻ tại ACB.
Là một trong những ngân hàng đi đầu trong hoạt động kinh doanh thẻ, những khó khăn mà ACB đang gặp phải là những khó khăn phổ biến đối với các ngân hàng hiện đang kinh doanh trong lĩnh vực này. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
2.1. Về môi trường pháp lý
Khó khăn trước hết là chưa có sự phát triển đồng bộ về môi trường pháp lý và các chính sách liên quan cho việc phát hành và thanh toán thẻ. Quy chế chính thức về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng ban hành theo Quyết định 371/1999/NHNN1 đã đặt nền móng cho sự phát triển của thanh toán thẻ tại Việt Nam. Tuy vậy, quy chế này quá chặt chẽ đối với hoạt động của các ngân hàng, thủ tục yêu cầu để được phát hành và thanh toán thẻ mà Ngân hàng Nhà nước đề ra cho các ngân hàng còn khá nhiều phiền hà và không hợp lý, làm mất đi sự chủ động của các ngân hàng trong phát hành và thanh toán thẻ. Ngoài ra vì chưa có những văn bản hướng dẫn cụ thể và hợp lý nên nảy sinh những bất cập giữa quy định hiện hành về chế độ quản lý ngoại hối, tín dụng, thanh toán…với các phương thức phát hành và thanh toán thẻ hiện nay ở Việt Nam, vì trên thực tế hiện nay phần lớn chủ thẻ sử dụng thẻ để thanh toán ở nước ngoài, hoạt động này lại phụ thuộc quy chế quản lý ngoại hối của chính phủ, gây lúng túng cho ngân hàng trong công tác phát hành và thanh toán thẻ
Hiện nay, trong bộ luật hình sự Việt Nam chưa quy định tội danh và khung hình phạt cho những vi phạm trong lĩnh vực thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Mặc dù không có quy định riêng liên quan đến thẻ tín dụng trong Luật hình sự nhưng vẫn có thể vận dụng những điều khoản sẵn có của luật để điều chỉnh các vi phạm xảy ra một cách hiệu quả. Tuy nhiên, quan hệ giữa ACB và các tổ chức thẻ quốc tế đựơc điều chỉnh theo quy định và luật của các tổ chức thẻ quốc tế. Mặc dù các điều luật của các tổ chức thẻ quốc tế mà hai bên thoả thuận tuân thủ đều có quy định chi tiết, luôn được cập nhật và không mâu thuẫn với luật pháp Việt Nam nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt đã và sẽ xảy ra có những khó khăn cho ngân hàng trong việc phân sử tranh chấp phát sinh, gây tổn thất về tài chính.
Các tài liệu cũng như hoạt động nghiệp vụ về thẻ tại thị trường Việt Nam hầu như không có. NHNN chưa tổ chức một khoá học nào cho các ngân hàng về nghiệp vụ thẻ. Các ngân hàng trong đó có ACB buộc phải tham gia các khoá học do các tổ chức thẻ quốc tế tổ chức. Chi phí về tài liệu và tham gia các khoá đào tạo tại nước ngoài là một khoản chi không nhỏ đối với các ngân hàng nên khó tiến hành thường xuyên, gây khó khăn cho việc cập nhật thông tin, tích luỹ kinh nghiệm.
2.2. Về môi trường kinh tế xã hội
Khó khăn lớn nhất đó là nhận thức cuả dân chúng đối với loại hình thanh toán mới mẻ này. Làm sao để công chúng hiểu rõ được hết lợi ích và vai trò to lớn của thẻ đối với xã hội nói chung và đối với bản thân từng chủ thẻ nói riêng. Rõ ràng là thói quen dùng tiền mặt trong đời sống dân cư Việt Nam đã hình thành và bám rễ rất sâu. Bên cạnh đó mức thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam còn thấp so với ngay cả nhiều nước trong khu vực cũng là một trở ngại cho việc phát triển sử dụng thẻ. Hơn nữa đối với nhiều người, thẻ dường như là một sản phẩm công nghệ cao dành cho những đối tượng có thu nhập cao. Thói quen ưa thích sử dụng tiền mặt gây rào cản không chỉ cho người sử dụng thẻ mà chủ yếu cho cơ sở cháp nhận thẻ. Tại nhiều đơn vị bán lẻ hàng hoá mặc dù đã là cơ sở chấp nhận thẻ của ngân hàng nhưng vẫn chỉ chấp nhận thẻ là phương tiện thanh toán cuối cùng khi khách hàng không có tiền mặt.
Một vấn đề nữa làm nảy sinh tâm lý không thích chấp nhận thanh toán thẻ của các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ là khi thanh toán thẻ, các giao dịch buộc phải qua ngân hàng ảnh hưởng đến mức thuế phải đóng của đơn vị. Với mức chiết khấu 2,5%-3% doanh số thanh toán theo hoá đơn thẻ, các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ không thể trốn được thuế cho những giao dịch này. Mặt khác các đơn vị vẫn chưa hề ý thức được những tiện lợi của thanh toán thẻ để thu hút khách hàng, tăng doanh số tạo uy tín trên thị trường, quản lý nhân viên … Thậm chí còn thu thêm phụ phí, điều này gây ra tâm lý ngại sử dụng thẻ của chủ thể. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
2.3. Về bản thân Ngân hàng TMCP á Châu.
Việc phát triển thanh toán thẻ đòi hỏi phải đầu tư trang thiết bị kỹ thuật cao và công nghệ hiện đại với ch phí cao cùng một đội ngũ cán bộ có dủ khả năng quản lý và vân hành hệ thống theo các tiêu chuẩn quốc tế. Để triển khai nghiệp vụ thẻ, ACB phải đầu tư phần mềm đáp ứng tiêu chuẩn hệ thống quản lý thẻ mà còn phải đầu tư cả phần cứng cho hệ thống sử lý thẻ. Cả phần mềm và phần cứng sử dụng cho nghiệp vụ thẻ đều mang tính chất chuyên ngiệp cao và chưa có nững đơn vị bảo dưỡng tại Việt Nam đòi hỏi ACB phải có thiết bị dự phòng, làm tăng chi phí đầu tư cho nghiệp vụ này, gây tâm lý dè dặt đầu tư công nghệ, dẫn đến sự hạn chế doanh số phát hành và thanh toán thẻ.
Một khó khăn rất lớn đối với ACB trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ đó là sự đối mặt với tình hình cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng trong lĩnh vực kinh doanh thẻ. Ngày càng có nhiều ngân hàng tham gia vào lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ với nhiều lợi thế về kỹ thuật và công nghệ, kinh nghiệm và quan hệ với khách sạn nhà hàng lớn hơn ACB gây lên sự chia sẻ thị trường và khó khăn rất lớn cho ACB. Đặc biệt là sự xuất hiện của các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, họ có lợi thế hơn hẳn ACB về vốn đầu tư, kinh nghiệm trình độ nghiệp vụ chuyên môn trong phát hành và thanh toán thẻ, có kinh nghiệm trong hoạt động Marketing thu hút khách hàng, hơn nữa lại có sự hậu thuẫn của các ngân hàng mẹ ở các nước phát triển với mạng lưới chi nhánh ở nhiều nước khác nhau trên thế giới. Vì vậy, mặc dù là một trong những ngân hàng TMCP lớn nhất tại Việt Nam hiện nay, nhưng ACB cũng gặp phải không ít khó khăn trong việc mở rộng dịch vụ thẻ, chiếm lĩnh thị trường thẻ tại Việt Nam. Bên cạnh đó ACB còn gặp không ít khó khăn về chi phí cho hoạt động mở rộng dịch vụ thẻ, chi phí cho công tác quảng cáo, quảng bá sản phẩm, vì vậy khách hàng biết đến sản phẩm của ngân hàng còn ít, tuy rằng chất lượng sản phẩm được đánh giá là tốt hơn các ngân hàng khác. Tuy nhiên, cạnh tranh lại làm cho ACB tin tưởng hơn vào con đường đầu tư của mình, cố gắng hơn để đứng vững và bảo vệ vị thế của mình trên thị trường thẻ trong nước và quốc tế.
2.4. Các nguyên nhân khác.
Ngoài những nguyên nhân cơ bản đã được trình bày làm hạn chế việc mở rộng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của ACB còn một số nguyên nhân khác như: việc mua sắm, lắp đặt, sửa chữa các thiết bị phục vụ cho nghiệp vụ thẻ cũng không đựoc miễn thuế hay tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng hay khuyến khích các ngân hàng đi đầu trong nghiệp vụ thanh toán mới mẻ này.
Hệ thống viễn thông tại Việt Nam hoạt động không ổn định cũng là một trở ngại cho vận hành hệ thống quản lý thẻ. Các trục trặc về mặt kỹ thuật đường truyền thông đôi khi gây ra tâm lý chưa tin tưởng vào việc sử dụng thẻ giao dịch mua sắm và thanh toán thuận tiện. Bên cạnh đó, phí điện thoại trong nước lại quá cao làm hạn chế việc mở rộng mạng lưới chấp nhận thẻ ở các tỉnh xa.
Việc phối hợp giữa ngân hàng và các cơ quan chức năng có liên quan cũng chưa được quan tâm làm hạn chế việc trao đổi và phối hợp sử lý thông tin, nhất là thông tin liên quan đến giả mạo và rủi ro trong sử dụng và thanh toán thẻ. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Xem thêm: Lời kết luận hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH THANH TOÁN THẺ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH THĂNG LONG (VCB TL)
2.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long.
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long có tiền thân là Chi nhánh cấp II Ngân hàng Ngoại thương Cầu Giấy trực thuộc Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội, được thành lập và đi vào hoạt động từ ngày 03/03/2003. Đến năm 2006 được nâng cấp thành Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Cầu Giấy trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam theo quyết định số 13/12/2006 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Ngày 01/08/2007, Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Cầu Giấy được đổi tên thành Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long theo quyết định số 567/NHNT-TCCB-DDT ngày 11/07/2007 của Chủ tịch Hội Đồng quản trị Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Ngày 02/06/2008 Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long được chuyển đổi thành Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long (Vietcombank Thăng Long). Hiện nay Vietcombank Thăng Long là Chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng TNCP Ngoại thương Việt Nam, một ngân hàng hàng đầu Việt Nam có bề dày 45 năm lịch sử, “Ngân hàng có chất lượng thanh toán hàng đầu” (JP MORGAN), “Ngân hàng tốt nhất” (Tạp chí ASEAN MONEY), “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam” 5 năm liền 2001- 2005 (Tạp chí THE BANKER), “Top 10- Thương hiệu kinh tế đối ngoại uy tín” lần thứ nhất 2009. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Hiện nay, Ngân hàng đã quy tụ và đào tạo được đội ngũ 110 cán bộ nhân viên với độ tuổi trung bình 29 tuổi. Với nhưng cán bộ chủ chốt lâu năm đầy kinh nghiệm, ngân hàng còn có đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực để kế cận và tiếp cân với nhưng đổi mới hoàn thành công việc trong tương lai, đảm nhân nhiệm vụ tại 11 phòng ban bao gồm: Ban Giám đốc, phòng Khách hàng, Tổ kiểm tra nộ bộ, phòng Hành chính Nhân sự, phòng Ngân quỹ,phòng Kế toán, phòng Thanh toán – Kinh doanh dịch vụ và 5 phòng Giao dịch.
- Hiện tại, tên giao dịch tiếng Việt: Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
- Tên giao dịch băng tiếng Anh: Join stock commercical bank of foreign trade of Viet Nam – Thang Long Branch (Vietcombank Thang Long)
- Trụ sở chính: 98 Hoàng Quốc Việt – Cầu Giấy – Hà Nội.
2.1.2. Các hoạt động của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long
Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long là ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ , tín dụng, ngân hàng, có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo Luật ngân hàng và Luật doanh nghiệp. Theo đó ngân hàng có những chức năng và nhiệm vụ sau:
Huy động vốn: với hoạt động mở tài khoản và nhận tiền gửi tiết kiệm của tất cả các tổ chức và dân cư trong và ngoài nước:
- Mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng VND và ngoại tệ.
- Nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn.
- Phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi, tín phiếu, kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng.
- Các hình thức huy động vốn khác như tiếp nhận vốn tài trợ, vốn ủy thác đầu tư từ nước NHNN và các tổ chức quốc tế, chính phủ của các nước và các cá nhân.
Tín dụng:
- Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VND và ngoại tệ đối với các tổ chức kinh tế, cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Đồng tài trợ, cho vay hợp vốn đối với những dự án có quy mô lớn và thời gian hoàn vốn dài hạn.
- Bảo lãnh: bảo lãnh mua hàng trả chậm, bảo lãnh tham gia đấu thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, vay vốn với bên thứ ba, bảo lãnh giao nhận hàng.
Thanh toán quốc tế: thục hiện nghiệp vụ thanh toán xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ bằng các phương thức:
- Thư tín dụng (L/C): nhận phát hành thư tín dụng, thông báo L/C, xác nhận, chiết khấu và thanh toán L/C…
- Nhờ thu: nhờ thu hối phiếu trả ngay (D/P) và nhờ thu chấp nhận hối phiếu (D/A)…
- Chuyển tiền điện tử.
- Thanh toán thẻ tín dụng quốc tế , séc du lịch. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
Dịch vụ thanh toán điện tử: được thực hiện nhanh chóng, chính xác, an toàn và tiện lợi nhờ hệ thống máy tính được nối mạng nội bộ.
2.1.3. Cơ cấu tổ chức:
Hiện nay, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Thăng Long có 11 phòng ban, 5 phòng giao dịch và 110 cán bộ nhân viên.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH THĂNG LONG
Luôn tiên phong trong việc cung cấp cho khách hàng các giải pháp tài chính tối ưu nhất, Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt nam (Vietcombank) là ngân hàng thương mại đầu tiên và đứng đầu ở Việt Nam triển khai dịch vụ thẻ – dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt hiệu quả, an toàn và tiện lợi nhất hiện nay “Phong phú và đa dạng, tiện lợi và ưu việt, sành điệu và tinh tế, sản phẩm thẻ Vietcombank thực sự giúp Bạn khẳng định phong cách của mình” là phương châm mà VCB VN cùng các Chi nhánh trực thuộc bao trong đó có Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thăng Long luôn cố gắng để phục vụ khách hàng.
2.2.1. Các loại thẻ do Vietcombank Việt Nam phát hành
Là ngân hàng tiên phong trong hoạt động thanh toán thẻ ngân hàng từ năm 1990 đến nay VCB VN đã tạo ra được nhưng bước tiến mạnh trong việc đa dạng và hoàn thiện hoạt động thanh toán thẻ.
Thẻ ghi nợ nội địa
- – Thẻ Vietcombank Connect 24 là sản phẩm thẻ ghi nợ nội địa đầu tiên được phát hành tại Việt Nam và hiện đang được sử dụng rộng rãi trên toàn quốc.
- – Thẻ Vietcombank SG24 là kết quả của sự kết hợp hoàn hảo giữa Vietcombank và Công ty truyền thông Sáng tạo Việt Nam, Thoả mãn nhu cầu mua sắm, chăm sóc sức khoẻ, giải trí… một cách nhanh chóng và tiện lợi nhất với mạng lưới rộng khắp trên toàn quốc. Mạng lưới ưu đãi tại hàng trăm khu spa, nhà hàng, khách sạn, rạp chiếu phim…cao cấp và sang trọng. ( Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng )
2.3. ĐÁNH GIÁ VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI NGÂN HÀNG TMCP NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CHI NHÁNH THĂNG LONG
2.3.1. Những ưu điểm
Năm trong hệ thống Vietcombank VN, Chi nhánh Vietcombank TL có nhưng điều kiện tốt để phát triển hoạt động thanh toán thẻ nhờ nhưng lợi thế của hệ thống Vietcombank Vn.
- Hệ thống Vietcombank là hệ thống ngân hàng tiên phong đi đầu trong lĩnh vực thanh toán thẻ tại Việt Nam.
- – Vietcombank đã và đang liên kết với các đối tác lớn, uy tín như Vietnam Airlines và Kênh ca nhạc giải trí MTV Châu Á để cho ra đời các dòng sản phẩm thẻ liên kết có nhiều ưu đãi vượt trội phục vụ các khách hàng.
- Công nghệ thông tin luôn được cập nhật và cải tiến để đáp ứng tính bảo mật an toàn hoàn hảo trong thanh toán thẻ
- Các loại hình thẻ ngày càng được mở rộng và phát triển mạnh mẽ với những tính năng ưu việt riêng.
- Thủ tục phát hành thẻ đơn giản dễ tiếp cận, luôn có đội ngũ nhân viên trợ giúp.
- Công tác quảng bá, tiếp thị, phát triển dịch vụ thẻ với nhiều hình thức khuyến mại hấp dẫn luôn được chi nhánh chú trọng quan tâm.
- Liên kết với nhiều trường đại học, công ty và các đơn vị tổ chức khác để đẩy mạnh sự phất triển thông qua việc đem lại nhiều tiện ích cho khách hàng.
- Đội ngũ nhân viên được đào tạo chuyên nghiệp đem đến dịch vụ tốt nhất cho khách hàng.
2.3.2. Những nhược điểm
- Phát triển hơn nữa trong việc phát triển mạng lưới các CSCNT. Số lương CSCNT trong vài năm gần đây tuy có tăng cao nhưng vẫn đa phần là các cơ sở tiếp xúc với người nước ngoài như: hàng không, khách sạn lớn, nhà hàng lớn…Các điểm rút tiền còn chưa nhiều gây bất lợi cho khách hàng. Vì qua một vài bảng số liệu trên đây có thể nhân thấy tỷ lệ thẻ ghi nợ nội địa được phát hành của Vietcombank TL tăng khá cao trong vài năm. Đây cũng là điều dễ hiểu vì tại Việt Nam đã phát hành gần 21 tiệu thẻ các loại trong đó có đến 97% là thẻ ghi nợ nên việc Chi nhánh cần có thêm máy ATM và hệ thống thanh toán qua mạng Internet là rất cần.
- Dịch vụ chăm sóc khách hàng còn gặp nhiều vấn đề : hệ thống ATM vẫn còn tình trạng trục trặc, ngưng hoạt động, kẹt thẻ, khách hàng không rút được tiền.
- Sự cạnh tranh về thị phần thẻ giữa các NHTM kiến thị phần bị chia nhỏ lẻ hơn.
Xem thêm: ==> Dịch vụ viết thuê báo cáo thực tập
Lời kết: Trên đây Thuctaptotnghiep đã chọn lọc cho các bạn Thực trạng về hoạt động phát hành, thanh toán thẻ tại ngân hàng từ những bài đạt điểm cao, được đánh giá tốt trong quá trình làm bài. Hy vọng với bài viết này có thể giúp cho các bạn có thêm tài liệu tham khảo để hoàn thành thật tốt bài luận của mình. Ngoài ra, trong quá trình làm bài các bạn gặp khó khăn trong vấn đề thiếu tài liệu hoặc không có thời gian viết bài luận cần thuê người viết, các bạn liên hệ qua zalo: 0934.536.149 để được hỗ trợ làm tốt bài luận của mình nhé.
Chúc các bạn hoàn thành thật tốt bài báo cáo thực tập của mình!
Tôi tên là Đặng Thị Thu Phương, năm nay 29 tuổi, tốt nghiệp thạc sĩ trường Đại học Kinh Tế. Tôi hiện nay Chuyên phụ trách nội dung trên website: luanvanpanda.com. Luận Văn Panda được thành lập từ năm 2009, nhóm Luận văn Panda bao gồm các thành viên tốt nghiệp đại học và thạc sĩ loại giỏi từ các trường Đại học trên cả nước, với niềm đam mê viết lách, soạn thảo văn bản, phân tích kinh tế, chúng tôi nhận hỗ trợ sinh viên Đại Học, và học viên cao học hoàn thành tốt bài luận văn đại học, và Luận văn thạc sĩ, https://thuctaptotnghiep.com/ – Hoặc ZALO: 0932.091.562